Tác giả Chủ đề: Câu chuyện tử vi - cải tạo vận mệnh, chuyển nghiệp  (Đã xem 4356 lần)

0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.

Ngủ rồi be-buti

Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 13)

2013-06-22 15:24:10

(PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 19/04/2001.

 

Chư vị đồng tu, xin chào mọi người!

 

Chúng ta tiếp tục giới thiệu về Lâm thị ở Bổ Điền, đây là ví dụ thứ tư, có quả báo của việc hiếu thiện tích đức. Năm đầu của Lâm gia ở Bổ Điền có một vị lão tổ mẫu, thích làm việc thiện thích bố thí, thường làm bánh bao để bố thí cho người nghèo. Năm dài tháng rộng, bà đều bố thí không mệt không chán, hoan hoan hỉ hỉ, mà cứu giúp người nghèo khổ.

 

[Nhất tiên hóa vi đạo nhân]

 

Có một vị tiên nhân, hóa làm một đạo sĩ. Tiên hóa thành đạo nhân, chúng ta bất tất phải hoài nghi ông, chúng ta chỉ xem đến “có một đạo nhân nghèo”.

 

[Mỗi đán sách thực lục, thất đoàn]

 

Ông ấy mỗi ngày cũng đến nơi này xin đến sáu, bảy cái bánh bao, ông mỗi ngày đều đến.

 

[Mỗi nhật nhật dữ chi]

 

Vị lão mẫu này ngày ngày đều cho ông. Ông có được nhiều hơn, người khác chỉ lấy một cái, hai cái; ông mỗi ngày đều lấy đến sáu, bảy cái.

 

[Chung tam niên như nhất nhật].

 

Mỗi ngày đều đi như vậy, xin suốt ba năm, lão thái thái này luôn hoan hỉ vui vẻ cho ông ấy.

 

[Nãi tri kỳ thành dã]. Điều này cho biết lão thái thái bố thí cứu người là xuất phát từ tâm chân thành của bà.

 

[Nhân vị chi viết]

 

Đến một ngày vị đạo trưởng nói với lão thái thái, ông nói: “Ngô thực nhữ tam niên phấn đoàn, hà dĩ báo nhữ”.

 

Tôi ăn của bà hết ba năm, mỗi ngày ăn hết sáu, bảy cái bánh bao, tôi đã ăn hết ba năm, tôi lấy gì để báo đáp cho bà? Ông nói:

 

[Phủ hậu hữu nhất địa, táng chi.]

 

Trong nhà của bà có một mảnh đất quý, ông nói: “tương lai sau khi chết đem an táng ở đó”.

 

[Tử tôn hữu tước, hữu nhất thăng ma tử chi sổ]

 

Tương lai con cháu của bà, số người được làm quan, nhiều như một thăng hạt mè vậy. Đây là thành tâm cứu người!

 

[Kỳ tử y sở điểm táng chi, sơ thế tức hữu cửu nhân đăng đệ, lũy đại trâm anh thậm thịnh, Phúc Kiến hữu vô Lâm bất khai bảng chi dao]. (Người con bèn theo chỗ chỉ điểm mà để mộ. Mới đợt đầu đã thấy phát ngay có chín người đăng khoa trúng cử, đời đời quan tước cực thịnh. Ở Phúc Kiến có câu nói: chẳng người họ Lâm nào là chẳng khoa bảng đề danh cả.)

 

Câu nói này là thật. Lúc trước tôi đã ở Thành phố Kiến Âu tỉnh Phúc Kiến 6 năm, mãi cho đến thời kỳ khánh chiến, trong gia đình của họ đời đời đều có hiền nhân. Hậu nhân của bà đã y theo chỉ điểm của đạo trưởng, đem bà mai táng ở mảnh đất đó. Quả nhiên, đời đầu tiên sau khi mai táng bà, hậu nhân của bà có chín người đậu tiến sĩ, cho nên tại Phúc Kiến có một câu nói rằng: “không một người họ Lâm nào mà chẳng khoa bảng đề danh cả”. Mỗi khi tổ chức khoa cử, người thi đỗ cử nhân, đỗ tiến sĩ, nhà họ Lâm là nhiều nhất. Đây là tổ tiên của họ, vị lão thái thái đó đã dùng tâm chân thành bố thí cứu người, cả đời không biết chán mỏi. “Lũy đại” là chỉ đời đời kiếp kiếp.

 

“Trâm anh”, đây là nói về chiếc mũ của người làm quan thời xưa. Cái được cài trên mũ gọi là “anh”, tức cái để buộc mũ gọi là anh-giải mũ, còn cái được cài trên tóc gọi là trâm. Đây đều là nói chức quan lớn. Gia tộc này vô cùng hưng vượng, không điều gì không phải nhờ ở tổ tông tích đức. Con cháu kế tục không gián đoạn hành thiện tích đức, giữ vững gia phong, đời đời không kém sút.

 

Tại Trung Quốc ví dụ này có rất nhiều, nổi tiếng nhất là Phạm Trọng Yêm. Chúng ta tại trong Cổ văn thường đọc thấy “Nghĩa điền kí”, biết được Phạm Trọng Yêm tiên sinh từ nhỏ đã có chí lớn cứu người cứu đời, một đời tích công lũy đức, không mệt không chán. Cho nên, đầu năm Dân quốc, Ấn Quang đại sư tán thán, tổ tiên Trung quốc tích được đại đức, đời sau con cháu đời đời đều hưởng được âm phước của họ, có ba người.

 

Người thứ nhất là Khổng tử, hơn 2500 năm mà gia đạo không suy, đế vương đời đời đều tôn kính đối với Khổng phu tử. Ngày nay, trong thời đại dân quốc, hậu duệ của Khổng tử ở nước ngòai đều nhận được sự tôn kính của người nước ngoài, đây là dư phước của Phu Tử.

 

Người thứ hai là Phạm Trọng Yêm, đến đầu năm dân quốc, 800 năm không suy. Đây là người đời Tống.

 

Người thứ ba, người mà đại sư nói là Diệp trạng nguyên, từ những năm đầu nhà Thanh, cho đến khi nhà Thanh suy, 300 năm không suy. Ấn Quang đại sư cử ra ba người này, là tổ tiên tích phước được dày. Lại xem phía sau vị thứ năm:

 

[Phùng Trác Am thái sử chi phụ], cha của thái sử Phùng Trác Am.

 

[Vi ấp tường sinh]. Ấp là huyện. Trường học của huyện, “tường” là trường học, cũng được tính là trường công lập; chỉ lúc ông là học sinh học ở trường do huyện lập, thông thường là nói tú tài.

 

[Long chung tảo khởi phó học]. Một buổi sáng mùa đông, ông đi đến trường.

 

[Lộ ngộ nhất nhân, đảo ngọa tuyết trung, môn chi bán cương hĩ].

 

Ông trên đường nhìn thấy một người, ngã vùi trong tuyết. Ông đến chạm thử vào anh ta, thấy vẫn chưa chết, nhưng đã sớm bị đông cứng rồi.

 

[Toại giải kỉ miên cừu ý chi]

 

Bản thân ông đang mặc là áo lông cừu hoặc là y phục bằng da, đây là áo khoác ngoài, ông nhanh chóng cởi áo ra, bao bọc người đó lại.

 

[Thả phù quy cứu tô]

 

Mang người này về nhà, cứu sống anh ta. Đây là cứu một mạng người, nhà Phật thường nói: “cứu một mạng người, còn hơn xây bảo tháp bảy tầng”. Câu nói này ý nghĩa sâu sắc. Người ta chỉ biết xây dựng chùa miếu. “Phù đồ” là bảo tháp, “thất tầng” chính là bảo tháp bảy tầng, công đức xây dựng này rất lớn. Hiện tại lại còn tạo tượng Phật lớn, đại khái công đức của tạo tượng Phật so với công đức xây dựng bảo tháp càng lớn hơn. Tôi lại nghĩ đến câu nói này của cổ nhân, cứu một mạng người còn thù thắng hơn tạo tượng Phật Bồ tát cao một trăm mét, không chỉ là bảo tháp bảy tầng. Bạn tạo tượng Phật Bồ tát to như vậy có tác dụng gì? Ngày nay người khổ nạn trên thế gian quá nhiều, có bao nhiêu người sắp bị đói khổ, không có ăn, không có mặc, sinh bệnh không có thuốc uống, đáng thương biết bao! Tạo một tượng Phật to như thế, dựng một bảo tháp phải tốn hết bao nhiêu tiền của, bạn đem số tiền đó đi cứu tế dân khổ nạn, những người dân sắp bị đói khát này, tôi tin rằng công đức của bạn là vô lượng vô biên. Cứu một mạng người quả báo là bất khả tư nghì, được phước lớn như vậy, bạn nếu như có thể cứu sinh mạng của ngàn vạn người, tôi tin rằng con cháu đời sau của bạn làm quan rất nhiều, cũng như vị đạo sĩ phía trước đã nói, số người cũng có thể nhiều như một thăng hạt mè. Vậy tại sao lại không làm chứ? Chúng ta phải suy nghĩ kĩ, cái gì là công đức chân thật, ở đây có tiêu chuẩn. Hễ là chân chánh khiến cho tất cả khổ nạn chúng sanh có được chỗ tốt, có được lợi ích, công đức này là chân thật; nếu như khiến cho tất cả chúng sanh không có được lợi ích chân thật, công đức này là giả.

 

Cho nên tôi rất không tán thành tạo những tượng Phật lớn. Có người nói, tượng Phật lớn đặt tại địa phương này thì người nơi đây được bình an. Chưa chắc, đây là mê tín. Một vùng được phước, một vùng được bình an, là dựa vào cái gì? Dựa vào giáo hóa, dựa vào cải biến nhân tâm. Hiện tại lòng người ở thế gian này, tòan thế giới cơ hồ không ngoại lệ, đều là tự tư tự lợi ngày ngày đang tăng trưởng, tham sân si mạn ngày ngày đang tăng trưởng, đây là căn nguyên của tai họa. Tạo một tượng phật lớn thì có thể đem nó trấn định ở đó, nào có đạo lí này! Nếu muốn hóa giải tai nạn thì phải đề xướng giáo dục; giáo dục Phật giáo. Giáo dục Phật giáo là dạy về tu trí huệ, là dạy về lòng từ bi, dạy về tình thương yêu, hướng dẫn cho mọi người biết xả bỏ tự tư tự lợi, buông xả danh văn lợi dưỡng, tham sân si mạn, hi sinh phụng hiến vô điều kiện, để giúp đỡ xã hội, giúp đỡ tất cả người dân khổ nạn, Phật dạy chúng ta những điều này. Chúng ta minh bạch rồi, chân chánh chịu y giáo phụng hành, chúng ta tự mình được độ, cũng chân thật có thể tạo phúc cho xã hội, tạo phúc cho mọi người, đây là giáo huấn của Phật Đà.

 

Giả như nói tạo bảo tháp, tạo tượng Phật công đức chân thật có bao nhiêu lớn, Thích Ca Mâu Ni Phật lúc còn tại thế, tại sao lại không tạo tượng Phật lớn? Tại sao không đi xây dựng bảo tháp lớn? Chúng ta xem xem trong truyện kí của Thích Ca Mâu Ni Phật, lúc Lão nhân gia còn tại thế, một đời giảng kinh thuyết pháp suốt 49 năm, ngoại trừ việc giảng kinh thuyết pháp dạy học, ngài không làm việc gì khác. Phật cũng không làm pháp hội thủy lục gì cả, cũng không bái sám gì hết, thậm chí cho đến đả Phật thất, đả thiền thất mà ngày nay nói đến, chúng ta tại trên kinh điển đều tìm không thấy. Đây là người đời sau làm, Phật Bồ Tát không làm cái sự việc này. Chúng ta học Phật, nhất định phải hướng đến Phật Bồ tát mà học tập. Phật Bồ tát ở tại nơi đâu? Kinh điển. Chúng ta nhất định phải y cứ vào lí luận, vào phương pháp trên kinh điển mà tu học, phải bắt chước Phật Bồ Tát, học tập Phật Bồ Tát, đây mới là học trò chân chánh của Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng ta tại chỗ này xem thấy Phùng Trác Am cứu một mạng người, cảm ứng mà ông có được là:

 

[Mộng thần cáo chi viết]

 

Đây là buổi tối nằm mộng, mộng thấy một thiên thần đến nói với ông:

 

[Nhữ cứu nhân nhất mạng, xuất chí thành tâm, ngô khiển Hàn Kì vi nhữ tử.] (Ngươi do tâm chí thành cứu được một mạng người, ta sẽ khiến Hàn Kỳ đầu thai vào làm con ngươi.)

 

Đây là nói đến luân hồi. “Hàn Kỳ” là người đời Tống, thời đại Tống Anh Tông, Tống Thần Tông, ông làm tể tướng mười năm, cũng đã từng làm nguyên soái, là một người rất tài giỏi, văn võ toàn tài; từ trên lịch sử chúng ta đọc đến, ông rất được sự tôn trọng của người đương thời và hậu thế. Vào lúc đó, ông nổi danh ngang với Phạm Trọng Yêm, hai người họ là sống cùng thời. Thân phụ của Phùng Trác Am làm được việc tốt này nên vị thần này đến nói: Ta sẽ cho Hàn Kì đến làm con của ngươi.

 

[Cập sanh Trác Am, toại danh Kỳ] (Đến khi sinh ra Trác Am bèn đặt tên Kỳ).

 

Trác Am là tự của ông, tên của ông là Kì. Cha của ông dùng cái tên này, chính là vì trong mộng có sự việc này. Quả nhiên, ông làm quan đến chức Thái sử, thái sử chính là làm quan tại Hàn Lâm Viện có từ trước đó. Lại xem phía sau cử ra ví dụ thứ sáu:

 

[Đài châu Ứng thượng thư]

 

Ở Đài châu tỉnh Chiết Giang có một vị Ứng Đại Do Thượng Thư, Thượng Thư nói theo cách hiện nay chính là Bộ Trưởng, ông làm quan đến chức Bộ Trưởng.

 

[Tráng niên học tập nghiệp ư sơn trung]. “Tập nghiệp” là chỉ cho việc đọc sách; tại trong núi học hành. Lúc trước, người đọc sách hơn một nửa là ở nhờ trong các tự viện; tự viện xác thực là đã cung cấp nơi học tập tốt nhất cho người đọc sách. Thời xưa trường học không nhiều, một huyện thông thường chỉ có một trường học, gọi là huyện học, cho nên rất khó tìm được môi trường học tập. Ngoại trừ chùa miếu, đó chính là những gia đình giàu có. Trong gia đình giàu có cất chứa rất nhiều sách, họ mời thầy giáo đến tại gia đình mình dạy cho con em của họ; đây gọi là tư thục. Số lượng sách trong tàng thư đó đều không thể quá nhiều, cho nên tàng thư có đại quy mô đều ở tại tàng kinh lâu của tự viện, tàng kinh lâu chính là thư viện mà hiện nay chúng ta nói đến. Tàng kinh lâu trong tự viện không chỉ có chứa kinh Phật, mà tại Trung quốc, Nho gia, Đạo gia, Bách gia chư tử, cơ hồ toàn bộ đều thâu chứa trong đó. Người xuất gia chân chánh có học tập, chân thật có tu dưỡng thân tâm và đức hạnh, nên họ đều là những thầy giáo vô cùng tốt. Do đó người đọc sách thời xưa, tức tú tài, thông thường đều muốn đến chùa miếu để thân cận với người xuất gia, trong chùa miếu còn có tàng thư rất phong phú, nếu có chỗ nào không hiểu, đều có thể hướng đến người xuất gia mà thỉnh giáo. Mà việc người xuất gia hướng dẫn cho họ đều là một việc nên làm, đây là công đức tu tích trong nhà Phật, là việc tích thiện. Thế nhưng phật giáo thời hiện đại, tự viện đều đã biến chất rồi, hòan tòan không giống như trước đây. Thời xưa đây là nơi để dạy học, hiện tại đã biến thành nơi để làm kinh sám, là nơi làm việc với quỷ thần, điều này chúng ta nhất thiết phải biện biệt cho rõ ràng. Ông học tập trong núi; vì là trong núi, nên nhất định là ông cư ngụ trong chùa miếu.

 

[Dạ quỷ khiếu tập]. Buổi tối ở nơi này ma quỷ rất nhiều.

 

[Vãng vãng kinh người, công bất cụ dã]. Ở nơi hoang dã, những nơi này yêu quái và ma quỷ xác thực là có. Người thiếu can đảm sẽ không dám ở, Ứng tiên sinh là người can đảm, tâm địa lại chân chính, không sợ tà ma quỷ quái. Cho nên ông không sợ, ông vẫn cứ như cũ ở trong núi đọc sách.

 

[Nhất tịch văn quỷ vân]. Có một ngày nọ vào buổi tối, ông nghe được bọn quỷ đang nói chuyện với nhau.

 

[Mỗ phụ dĩ phu cửu khách bất quy, ông cô bức kỳ giá nhân, minh dạ đương ải tử ư thử, ngô đắc đại hĩ.]

 

Con quỷ này nói chuyện, nó nói có một người kia, người phụ nữ này bởi vì chồng của cô ta xa nhà đã quá lâu rồi mà vẫn chưa về, đại khái là cha mẹ chồng của cô ta cho rằng con trai của họ đã chết rồi, nên bức ép người con dâu này đi tái giá, người con dâu này không muốn, nên cô ta liền khởi lên ý niệm, ngày mai sẽ đến nơi này để treo cổ tự tử. Do đó con quỷ này, chúng ta liền biết được, đó là con quỷ treo cổ. Quỷ treo cổ này muốn tìm thế thân, nếu nó tìm không thấy thế thân, thì không cách gì đi đầu thai được. Điều này trong Phật Pháp nói không nhiều, nhưng trong Đạo giáo thì nói được rất nhiều, đối với sự viêc này nói được rất nhiều.

 

Phàm là những người bị hoạnh tử (chết đột ngột), tự sát, đều phải tìm được thế thân. Cho nên tự sát rất khổ sở, cái sự việc này vạn vạn lần không được làm! Đạo gia có nói với chúng tôi, người tự sát, cứ bảy ngày họ phải tái hiện lại cảnh chết một lần, cho nên vô cùng thống khổ. Treo cổ tự tử, cứ bảy ngày lại phải treo cổ một lần, đến khi nào tìm được thế thân, đến lúc đó họ mới có thể thoát thân; người nhảy lầu tự tử, cứ bảy ngày họ lại nhảy lầu một lần. Bạn nói xem như vậy có đáng thương hay không? Cho nên người dù có bất đắc dĩ đến thế nào, cũng không thể có ý niệm tự sát; đây quyết định là hành vi sai lầm, tuyệt đối không thể được! Cho là bạn tìm được thế thân, bạn đi đầu thai, vẫn là tùy theo nghiệp lực mà lưu chuyển, khổ không thể nói! Con quỷ treo cổ này cũng rất khó có được, vì ngày mai có người đến treo cổ, nên nó có thể tìm được thế thân, có thể đi đầu thai. “Ngô đắc đại hĩ”, tức nó được thay thế rồi.

 

[Công tiềm mại điền, đắc ngân tứ lạng, tức ngụy tác kì phu chi thư, kí ngân hoàn gia.]

 

Ứng thượng thư nghe được quỷ nói chuyện, trong tâm anh ta liền có chủ ý. Sáng sớm hôm sau ông liền quay về, vội vàng đem mảnh đất của mình bán đi, bán đi mấy mẫu đất, được bốn lạng bạc, lại viết một phong thư, ngụy tạo là người con trai của họ viết thư gửi về nhà, kèm theo cả bốn lạng bạc nữa, vội vàng gửi đến gia đình đó. Trong nhà này, cha mẹ của anh ta vừa nhìn thấy: “con trai có thừ từ gửi về liền nghĩ là chưa chết”.

 

[Kỳ phụ mẫu kiến thư, dĩ thủ tích bất loại, nghi chi]. Bút tích này không giống nên liền hoài nghi.

 

[Kế nhi viết: Thư khả giả, ngân bất khả giả, tưởng nhi vô dạng, phụ toại bất giá, kỳ tử hậu quy, phu phụ tương bảo như sơ].

 

Ứng thượng thư cứu được một mạng người. Cặp vợ chồng này nhìn thấy có người gửi thư về, lại có gửi cả bạc nữa, tuy nhiên bút tích của bức thư không giống, nhưng lại nghĩ bạc là thật. Tóm lại không thể nói vô duyên vô cớ mà người ta lại gửi bạc cho mình, nghĩ ngợi thấy nhất định là con trai mình bình an vô sự, cho nên cũng không ép buộc người con dâu phải cải giá nữa. Cứu được một mạng người con dâu, Ứng thượng thư đã cứu được một mạng này. Nhưng không chỉ cứu một mạng người, mà là còn thành toàn cho một cặp vợ chồng, bảo toàn cho họ không dẫn đến phân li. Cho nên con trai của ông ta về sau quả nhiên quay trở về. Ứng tiên sinh đã làm được một việc âm đức, ông làm việc này không một ai hay biết. Sau khi làm ra sự việc này:

 

[Công hựu văn quỷ ngữ viết, ngã đương đắc đại, nại thử tú tài hoại ngô sự]

 

Vốn dĩ nó có thể tìm được thế thân rồi, nào ngờ lại bị vị tú tài này phá hoại mất, vị tú tài này là chỉ Ứng Đại Do tiên sinh, bị ông phá hoại mất.

 

[Bàng nhất quỷ viết, nhĩ hà bất họa tha].

 

Bên cạnh có một con quỷ khác, nó nói: tại sao anh không đi hại hắn?

 

[Viết: thượng đế dĩ thử nhân tâm hảo, mệnh tác âm đức thượng thư hĩ, ngô hà đắc nhi họa chi].

 

Con quỷ treo cổ này liền nói: thượng đế biết người này có tâm tánh tốt, đã phê chuẩn cho anh ta làm âm đức thượng thư, tôi sao có thể làm hại anh ta được chứ?

 

[Ứng công nhân thử ích tự nỗ lệ, thiện nhật gia tu, đức nhật gia hậu.]

 

Ứng Đại Do nghe thấy cuộc đối thoại này của quỷ, bản thân càng thêm nỗ lực, biết việc làm này là đúng. Thượng đế phê chuẩn cho ông làm âm đức thượng thư, bản thân ông nào có biết? Câu này ý nói, tương lai ông có mạng làm bộ trưởng, con quỷ này đem tin tức này tiết lộ ra cho ông. Cho nên, ông càng thêm nỗ lực đoạn ác tu thiện. Vì vậy thiện của ông ngày càng tăng trưởng, đức của ông ngày càng dày hơn.

 

[Ngộ tuế cơ, triếp quyên cốc dĩ chẩn chi, ngộ thân thích hữu cấp, triếp ủy khúc duy trì, ngộ hữu hoành nghịch, triếp phản cung tự trách, di nhiên thuận thụ].

 

Đây đều là biết quay đầu là bờ, biết làm sao để làm việc thiện. Hoang niên (năm ruộng đất bỏ hoang, đói kém), thời điểm gặp phải đói kém, ông quyên lúa gạo đi cứu tai, cứu người. Khi gặp phải họ hàng thân thích có việc cần cấp, ông đều là “ủy khúc”, ủy khúc chính là bản thân nỗ lực hết mình, cứu giúp người khác, giải quyết khổ nạn cho người khác. Nếu gặp phải cảnh nghịch lòng, người khác vũ nhục ông, hủy báng ông, gặp phải những sự việc như thế, ông đều là phản cung tự trách, đây là học tập Đại Thuấn, tuyệt đối không trách cứ người khác. Ông tự thấy bản thân làm chưa đủ tốt, không thể khiến người khác sinh tâm hoan hỉ, lỗi không phải tại người mà là tại chính mình, bản thân mới có thể tu thiện, mới có thể tăng trưởng đức hạnh cho bản thân. Cho nên những cảnh nghịch ý đều có thể “di nhiên thuận thụ-vui vẻ thuận nhận”, di nhiên là hoan hỉ, vui vẻ, thuận chịu những việc trái nghịch xảy đến. Đây đều là sự thực của tích thiện tích đức, bản thân ông về sau làm Thượng Thư, làm đến chức Bộ Trưởng.

 

[Tử tôn đăng khoa đệ giả, kim lũy lũy dã].

 

Hậu nhân của ông, “đăng khoa đệ” là thi đỗ tiến sĩ, có rất nhiều! Thế hệ sau của ông rất tốt.

 

Thí dụ thứ bảy: Việc của Từ Phụng Trúc.

 

[Thường thục]. Đây là huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô, có một vị Từ Phụng Trúc tiên sinh.

 

[Từ Phụng Trúc Thức, kì phụ tố phú, ngẫu ngộ niên hoang, tiên quyên tô dĩ vi đồng ấp chi xướng, hựu phân cốc dĩ chẩn bần phạp.]

 

Đây là một người thiện, nhà của ông ấy rất giàu có. Ngẫu nhiên gặp phải năm mất mùa, hoặc là hạn hán, hoặc là thủy tai, thu hoạch không tốt, ông trước tiên liền đem số điền tô-tức tiền thuế mảnh ruộng này mà đáng ra ông nên thu hòan toàn đều bỏ hết, không thu nữa. Những người giàu có trước đây, Trung Quốc từ xưa có một quan niệm gọi là trí hằng sản (cất giữ tài sản), cũng như hiện nay chúng ta nói là bất động sản. Bất động sản thì tương đối đáng tin, nhưng người hiện tại, người có quan niệm như vậy không nhiều. Người xưa có tiền đều là đi mua đất, mua núi, đây gọi là hằng sản. Bất kể là gặp phải tai nạn như thế nào, đất đai của họ tóm lại vẫn còn đó, hằng sản của họ không thể bị phá hủy. Không giống như hiện tại, hiện tại công thương nghiệp vô cùng mong manh, một khi gặp phải thời kỳ khủng hoảng kinh tế, thì gặp tổn thất rất nặng. Trước đây, người xưa là có quan điểm này, chúng ta suy nghĩ  thấy vẫn còn rất chính xác.

 

Năm ngoái tôi đi Malaisia, ở tại sơn trang của cư sĩ Lí Kim Hữu, Lí Kim Hữu vẫn còn có quan niệm truyền thống Trung Quốc, ông đến nhiều nơi mua đất. Ông nói với tôi, ông không trữ tiền, quyết định không đem tiền gửi ngân hàng, ông nói: “đem tiền gửi ngân hàng là việc ngu ngốc, tiền của tôi gửi tại ngân hàng, gửi nó để tiết kiệm tiền, tôi chỉ có được chút xíu tiền lãi”. Ông không làm cái sự việc này. Tôi nói: Vậy ông làm gì? Ông nói: Tôi mua đất. đến nhiều nơi mua đất. Cho nên tại Kuala Lumpur, ông mở ra một khách sạn cấp sáu sao, diện tích khu đất này là 3000 mẫu Anh. Người ngoại quốc dùng một mẫu Anh, tương đương với sáu mẫu đất ở Trung Quốc; ba ngàn mẫu Anh, ba lần sáu, một vạn tám ngàn, mẫu Trung Quốc là một vạn tám ngàn mẫu (Một mẫu (亩/畝) bằng khoảng 667 m² hay 16 phương trượng (mỗi phương trượng bằng khoảng 11,111 m²). Khoảng 16 mẫu bằng một hecta sau này.).

 

Một khu đất lớn như vậy. Ông ấy tại Kuching mua một ngọn núi, diện tích bao nhiêu? năm ngàn mẫu Anh, năm lần sáu là ba mươi ngàn, tức ba vạn mẫu Trung Quốc. Đều rất lớn, chỉnh lí được rất tốt. Ông nói với tôi, ông tại Úc Châu cũng mua vài khu đất. Tôi hỏi: bao lớn? ông ta nói: lớn xấp xỉ như Tân Gia Ba. Tôi nói: ông kinh doanh ra sao? Ông nói: hiện tại vẫn chưa khai phát. Lần này tôi đi, ông nói với tôi, khu đất đó tổng cộng là tám vạn mẫu Anh. Tám vạn nhân sáu, con số này không cách gì tuởng tượng nổi! Đây là khu đất lớn nhất, vẫn còn có hai khu đất nhỏ hơn, là một vạn mẫu Anh. Có một nơi nhỏ nhất, phong cảnh nơi đó vô cùng đẹp, ông chuẩn bị ưu tiên khai phá nó trước, có hơn hai ngàn mẫu Anh. Cho nên tôi nghe được rất hoan hỉ, tôi nói: ông đến Úc Châu khai phát, tôi sẽ đi xem thử. Cho nên người xưa Trung Quốc cất giữ tiền của vào việc mua núi, mua đất, đây là một khái niệm rất chính xác.

 

Ông có nhiều đất đai như vậy, nhất định là thuê nông dân canh tác. Nông dân không có ruộng đất, họ thuê đất từ địa chủ, mỗi năm gieo trồng nộp tô; trong thành quả thu được, một phần lúa gạo được nộp cho chủ đất, chủ đất thu tô. Cha của Từ Phụng Trúc là một địa chủ, ông gặp phải năm mất mùa, ông liền đem tô thuế hoặc là giảm xuống, hoặc là thảy đều cho hết, hòan toàn không thu; ông lại còn đề xướng cứu tai. “Hựu phân cốc dĩ chẩn bần phạp”, kho gạo trong nhà ông, ông thảy đều đem hết ra để chửng cứu cho những người dân nghèo khổ, ông thường làm những việc tốt như vậy.

 

[Dạ văn quỷ xướng ư môn viết].

 

Trong đêm ông từng nghe thấy tiếng quỷ ca hát trước cửa nhà ông, chúng ca hát cái gì?

 

 [Thiên bất cuống, vạn bất cuống, Từ gia tú tài tố đáo liễu cử nhân lang, tương tục nhi hô, liên dạ bất đoạn].

 

 Quỷ ở trước cửa nhà ông kêu réo như thế. Từ gia tú tài, lúc đó chính là Từ Phụng Trúc, Từ Phụng Trúc là tú tài, chính là nói, cha của ông làm những việc tốt này, quả báo ông sẽ nhận được, ông đi thi, nhất định sẽ trúng cử nhân.

 

[Thị tuế, Phụng Trúc quả cử ư hương]

 

Từ Phụng Trúc quả nhiên vào kì thi năm đó đậu cử nhân.      

     

[Kì phụ nhân nhi ích tích đức, tư tư bất đãi, tu kiều tu lộ, trai tăng tiếp chúng, phàm hữu lợi ích vô bất tận tâm.]

 

Cha ông nghe thấy quỷ hát lên như thế, quả nhiên con trai ông thi đậu cử nhân, chân thật là có hiệu nghiệm, cho nên ông càng đặc biệt nỗ lực tu thiện. “Ích” là tăng trưởng, đặc biệt nỗ lực làm thiện, cố gắng không ngừng. “Tu kiều tu lộ-sửa cầu bồi lộ”, đây là cử ra một vài ví dụ ông làm lợi ích, làm thuận tiện cho người đi đường. “Trai tăng tiếp chúng”, trai tăng là thỉnh mời người xuất gia ăn cơm; tiếp chúng là tiếp cứu lương thực cho mọi người.

 

Ở đây có nói đến “trai tăng”, lợi ích của trai tăng ở chỗ nào? Tại sao phải làm việc này? Vào thời Minh triều, Thanh triều, phong trào này rất hưng thịnh; hiện tại ở Trung quốc và nước ngoài, vẫn còn rất thịnh hành. Cư sĩ tại gia dùng tài vật để cúng dường trai tăng, mong cầu tu phước. Mà những người xuất gia thọ nhận sự cúng dường này, phải vì họ mà thuyết pháp; câu này ý nói, phải hướng đạo cho họ. Người tại gia đối với người xuất gia là tài bố thí; người xuất gia đối với người tại gia là pháp bố thí, trai tăng chính là cầu pháp.

 

 Chúng ta tại trên Kinh Lăng Nghiêm xem thấy, Thích Ca Mâu Ni Phật tiếp nhận sự cúng dường trai tăng của quốc vương đại thần, thông lệ là sau khi dùng trai xong quyết định phải giảng kinh thuyết pháp, ngày nọ sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật tiếp nhận sự cúng dường trai tăng xong, ngài không thuyết pháp mà lại chuẩn bị ra về. Những trai chủ này không để cho Thích Ca Mâu Ni Phật ra về, nói rằng: “Ngài vẫn chưa thuyết pháp cho tôi, tôi đi theo Ngài”. Vốn dĩ Thích Ca Mâu Ni Phật phải đi làm một chuyện, là làm việc gì? A Nan tôn giả gặp nạn, trước tiên phải đi cứu ông ấy. Pháp hội Lăng Nghiêm là do nhân duyên này mà có, những người cúng dường trai tăng đó đều tham dự pháp hội giảng kinh Lăng Nghiêm. Trai tăng như vậy chân thật có công đức, có lợi ích chân thật. Những người xuất gia này có đạo đức, có học vấn, có tu dưỡng, là đạo sư của đại chúng xã hội, dùng lời nói hiện tại thì đó là thầy giáo đa nguyên văn hóa; họ chân chánh làm đến hi sinh phụng hiến một cách triệt để, là cầu học vấn, là giáo hóa chúng sanh, phụng hiến cả một đời.

 

“Tiếp chúng” là nói đến những người khổ nạn, tiếp là tiếp tế, họ nghèo đói hoặc là thất nghiệp, họ không có cơm ăn, không có áo mặc, không có vật dụng; cha của Phụng Trúc, gia đình ông giàu có, chỉ cần gặp được đều hoan hỉ đi giúp đỡ họ. “Phàm hữu lợi ích, vô bất tận tâm”, chỉ cần là việc có lợi ích cho xã hội, có lợi ích cho đại chúng, không việc gì là ông không tận tâm tận lực đi làm. Vì trong mạng có tài phú, cho nên ông làm người như vậy là rất đúng. Tài phú tuyệt đối không phải là cúng dường cho một người hưởng, một nhà hưởng. Trong mạng của bạn có tài phú, bạn phải biết, bạn là có sứ mạng, bạn có trách nhiệm phải đi tương trợ cho tất cả người khổ nạn trên thế gian này, như vậy tài phú của bạn đời đời kiếp kiếp đều hưởng không hết! Tài từ đâu mà tới? Tài từ bố thí mà đến, càng thí càng nhiều. Ông làm như vậy, sau đó lại nghe được quỷ ca hát trước cửa nhà ông, ca rằng:

 

[Thiên bất cuống, vạn bất cuống, Từ gia cử nhân, trực tố đáo đô đường]. Chức quan càng ngày càng lớn.

 

[Phụng Trúc quan chung lưỡng Chiết tuần phủ]

 

“Tuần phủ”, chính là tỉnh trưởng hiện nay, làm đến tỉnh trưởng tỉnh Chiết Giang. Có thể thấy được, người đời trước tích công lũy đức, quả báo thù thắng không gì sánh được. Chúng ta nghĩ, con cháu ông ta đều hưởng được phước báu lớn như thế, còn bản thân ông thì sao? Bản thân ông nhất định là càng lớn hơn thế nữa. Thế nhưng bản thân ông đã không còn tại thế, quả báo của bản thân ông là ở đời sau. Phàm là người tích công lũy đức như thế, nếu ông ta còn sinh ra tại thế gian thì đời sau của ông ta phước báu nhất định là bất khả tư nghì; nếu như đời sau không sinh ra tại thế gian, quyết định là lên trên trời hưởng phước. Phước của con cháu đời sau của ông rất dày, đây gọi là dư phước, chư vị nhất định phải hiểu được ý nghĩa này “tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh”, đây là dư phước để lại cho con cháu, phước báu của bản thân so với con cháu hưởng được nhất định là càng vượt hơn rất nhiều lần, chúng ta phải hiểu được cái đạo lí này. Thiện không thể không tu, không thể không tích, tích thiện nhất định có quả báo tốt.

 

Hôm nay chúng tôi chỉ giảng đến đây.

 


Ngủ rồi be-buti

Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 12)

2013-06-21 14:10:19

(PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 18/04/2001.

 
 Chư vị đồng tu, xin chào mọi người!
 

Mời xem tiếp đoạn văn phía sau:

 

[Ngô bối thân vi phàm lưu, quá ác vị tập, nhi hồi tư vãng sự, thường nhược bất kiến kì hữu quá giả, tâm thô nhi nhãn ế dã.] (Chúng ta đều là phàm phu, lỗi lầm đầy mình. Nếu nhìn lại quá khứ mà không thấy lỗi lầm, người đó tâm nhãn thô trệ.)

 

Đoạn văn đến chỗ này, sau khi cử ra tỉ dụ, đây mới là chánh thuyết. Chúng ta thân là phàm phu, sai lầm, ác nghiệp đã quá nhiều qúa nhiều rồi. “Vị tập” là tỉ dụ, giống như con nhím, gai của chúng mọc khắp thân nó.

 

 [Nhi hồi tư vãng sự], chúng ta suy nghĩ về quá khứ, thường thường cảm thấy “bản thân mình hình như không có lỗi lầm gì cả”, không thấy được bản thân mình có lỗi. Cho nên, con người chúng ta thường nói “tôi không có lỗi lầm gì lớn cả, hoặc tôi không làm gì sai”, điều này bản thân chúng ta đều có, chúng ta cũng thường hay có cảm giác này. Đây là nguyên nhân gì vậy? Vì tâm chúng ta quá thô. Tâm nhãn chúng ta quá tối tăm, quá u mê; nên không nhìn thấy được lỗi lầm của mình. Cho nên, Cừ Bá Ngọc thực sự là một tấm gương rất tốt cho chúng ta học tập. Phía sau, đoạn văn cho chúng ta biết, ác nghiệp cũng có dự báo:

 

[Nhiên nhân chi quá ác trọng giả] (Người có tội ác thâm trọng)

 

Trong Phật pháp nói ác nghiệp thâm trọng, người đó nhất định sẽ có dự báo không tốt.
 

[Diệc hữu hiệu nghiệm, hoặc tâm thần hôn tắc, chuyển đầu tức vong]. (Cũng có những triệu chứng như tâm thần bị hỗn loạn bế tắt, hay lãng trí trầm trọng.)

 
Chúng ta hãy để tâm quan sát những người xung quanh chúng ta, có lúc chúng ta có thể phát hiện được. Người này không có trí nhớ, hồ đồ, đần độn, nói với anh ta chuyện gì, anh ta rất nhanh đã quên mất.

 

[Hoặc vô sự nhi thường phiền não] (Hoặc tự nhiên cảm thấy bực bội không lý do).

 Những sự việc này, bản thân chúng ta hãy suy nghĩ thử xem, chúng ta có hay không? Khi không có vấn đề gì, không có ai trêu chọc, cũng tự sinh phiền não, chỉ cần tĩnh lặng quan sát liền có thể phát hiện được.

 
[Hoặc kiến quân tử nhi noản nhiên tiêu tự]
 

Đây chính là nói rất sợ phải gặp người chính nhân quân tử. Nhìn thấy người chính nhân quân tử, bản thân giống như rất xấu hổ. Những hiện tượng này, thực tại mà nói họ vẫn còn có thể cứu được. Tại sao? Bởi vì anh ta vẫn còn có tâm hổ thẹn.

 
[Hoặc văn chính luận nhi bất lạc].

 Khi nghe người khác nói những lời chính nghĩa thì không hoan hỷ. Tại sao? Bản thân làm những việc ác nặng nề đã nuôi dưỡng thành ác tập khí. Nghe bàn luận đến điều chính nghĩa cùng với những việc làm của bản thân hòan toàn tương phản, cho nên rất không hoan hỷ tiếp nhận.

 [Hoặc thí ân nhi nhân phản oán].

 Chúng ta bố thí, dùng lễ vật cúng dường người, nhưng người lại lấy oán đáp lại. Dưới tình huống anh ta không thể không tiếp nhận, thí như nói khi anh ta chịu rét, chịu đói, chịu cơ hàn bó buộc, chúng ta đem cho anh ta một vài bộ quần áo, một ít vật thực, anh ta đương nhiên sẽ tiếp nhận, nhưng sau khi tiếp nhận anh ta không cảm kích, anh ta lại lấy oán đáp lại. Việc này đích thực là có, hiện tại trong thế gian này thường thường gặp phải, đây là dấu hiệu của ác nghiệp thâm trọng, chúng ta phải thường suy nghĩ.

 

[Hoặc dạ mộng điên đảo].

 Buổi tối gặp ác mộng. Gặp ác mộng tuyệt đối không phải là dấu hiệu tốt, bản thân nhất định phải cảnh giác được ác nghiệp của mình rất nặng, cho nên buổi tối mới gặp ác mộng.

 
[Thậm tắc vọng ngôn thất chí]

 
Đây chính là nói không thể đề khởi tinh thần được, nói năng không mạch lạc.

 
[Giai tác nghiệt chi tướng dã]

 
Đây là ông lược nói một vài ví dụ, đây đều là tướng không tốt.

 [Cẩu nhất loại thử, tức tu phấn phát, xả cựu đồ tân, tân vật tự ngộ].

Nếu như bản thân chúng ta biết phản tỉnh, chúng ta có một điều hay hai điều giống như ví dụ đã cử trên, chúng ta liền phải cảnh tỉnh, lỗi lầm ác nghiệp của bản thân nhất định là rất nghiêm trọng. Nếu cảnh giác được phải nhanh chóng hồi đầu, lập tức nỗ lực “xả cựu đồ tân”, chính là phải cải đổi làm mới.

 [Hạnh vật tự ngộ], câu nói này là để khuyến miễn chúng ta, hi vọng bạn ngàn vạn lần đừng tự lừa gạt mình. Sự việc này, nhất định bản thân phải nỗ lực hết mình, người khác không thể giúp được. Phương pháp sửa lỗi chỉ giảng đến đây.

 Phía sau, chương thứ ba là phương pháp tích thiện. Mở đầu đoạn văn này, Liễu Phàm tiên sinh dẫn ra hai câu trong “Kinh Dịch”, vì chúng ta mà nói:

[Dịch viết: tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh].  

 Hai câu nói này có thể lấy lịch sử để làm chứng. Từ xưa đến nay, phàm là gia đình thuần hậu trung thực và biết tích thiện, đời sau của họ sẽ đời đời phát đạt. Cho dù không có sự phát đạt lớn, chí ít cũng có thể bảo hộ được bình an qua ngày, không đến nỗi phải rước lấy những tai họa.


Những điều này trên lịch sử có thể xem thấy, hiện tại chúng ta cũng có thể nhìn thấy được chỉ cần chúng ta tỉ mỉ để tâm quan sát. Câu này ý nói, nếu như là ngược lại, là do tiên nhân đời trước và cả bản thân họ đã tích ác, khi dối người khác, thậm chí làm những việc tổn người lợi mình, nguời này nhất định không thể có được phú quý lâu dài; ngay cả khi hiện tại anh ta là người đại phú đại quý.


Cho nên, một số người xem thấy hiện tượng: “Người này không việc ác gì không tạo, tại sao vẫn được đại phú đại quý?” Đây là do bạn không hiểu được đạo lí, trong đời quá khứ của gia đình anh ta, hoặc là bản thân anh ta, hoặc là tổ tiên của anh ta đã tu được đại thiện. Nhà Phật thường nói “tu phước không tu huệ”, bởi vì anh ta không tu huệ, nên đời này anh ta mới tạo tác ác nghiệp, tạo ác nghiệp thì sẽ làm tổn giảm phước báu.

 Thí dụ, phước mà trong đời quá khứ anh ta tu được có đến ức vạn tài phú, trong đời này tuy là phát tài, nhưng do tâm bất thiện, nơi nơi đều áp chế người khác, làm việc tổn người lợi mình, phước báu của anh ta bị tổn giảm, ngàn vạn tài phú biến thành trăm vạn tài phú, tổn thất quá lớn quá lớn; nhưng anh ta vẫn còn trăm vạn tài phú, so với người bình thường, anh ta vẫn là giàu có hơn rất nhiều. Nhân quả thông ba đời! Anh ta trong đời này dư phước hưởng hết, tội báo của anh ta liền hiền tiền. Có một vài người, quả báo của anh ta là ở đời sau; có những người ngay trong đời này lúc tuổi già bị sa sút, bị phá sản. Nguyên nhân tại sao? Vì gia đình tích ác, nên báo ứng của anh ta là như vậy. Mọi người nên hiểu được đạo lí này, hiểu rõ được chân tướng sự thật, nhất định phải biết đoạn ác tu thiện, tích công lũy đức đối với cá nhân chúng ta, đối với gia đình mình, đối với dòng họ mình, quyết định có đại lợi ích. Phía sau Liễu Phàm tiên sinh cử ra ví dụ:

 [Tích] tích là chỉ đời quá khứ.

 
[Nhan thị tương dĩ nữ thê Thúc Lương Hột]. Đây là nói nhà họ Nhan sắp gả con gái của mình cho Thúc Lương Hột.

 [Nhi lịch tự kỳ tổ tông tích đức chi trường]

 
“Lịch tự” chính là nói từng đời từng đời tổ tông của Thúc Lương Hột, họ đều tích đức. Gia đình này là gia đình tích thiện.

 [Nghịch tri kỳ tử tôn tất hữu hưng giả]

 “Nghịch” là dự liệu, dự đoán rằng con cháu sau này của gia đình ông ta nhất định được hưng vượng. Thúc Lương Hột là cha của Khổng Tử. Cho nên ngoại công của Khổng Tử đã dự đoán được gia đình ông tương lai nhất định sẽ hưng vượng, ông đem con gái mình gả cho Thúc Lương Hột, về sau sinh ra Khổng Tử. Ông làm sao xem thấy được? Nhìn thấy tổ tiên của Khổng Tử là đời đời tích thiện, cho nên biết trong nhà ông sẽ sinh ra đại thánh nhân. Câu chuyện này là nói đến tích thiện.

 
Chuyện thứ hai:

 
[Khổng tử xưng Thuấn chi đại hiếu]

 Người Trung Quốc nói về hiếu đạo, đầu tiên phải suy tôn Đại Thuấn. Người này là một tấm gương về tận hiếu, chúng ta từ trên ghi chép của lịch sử đọc được, nhất định phải hướng đến ông ấy mà học tập. Sau khi vợ của cha ông qua đời, cũng chính là mẹ của ông (gọi là sinh mẫu), cha ông liền cưới một người kế mẫu, sau đó người kế mẫu này cũng sinh một người con trai. Người kế mẫu đối xử với ông rất tệ, cha của ông chịu sự tác động của người kế mẫu; cha, kế mẫu, em trai do kế mẫu sinh ra; một gia đình bốn người thì cả ba người kia đều dùng tâm ác đối đãi với ông, nhiều lần sắp đặt cho ông đi vào chỗ chết. Hoàn cảnh gia đình này của ông thật quá ác, nhưng Thuấn vẫn có thể hiếu thuận, trong tâm mắt của ông, hòan toàn không nhìn thấy cha mẹ, anh em đối xử tệ với mình, ông luôn cho rằng bản thân làm không tốt, mới khiến cho cha ông không hoan hỉ, khiến cho người kế mẫu không vui, khiến em trai không vui, ngày ngày ông đều sửa đổi làm mới. Cứ như vậy sau vài năm, mới có thể cảm hóa được tòan gia đình. Đây gọi là đại hiếu, đây là chân chánh hiếu thuận. Tất cả Thuấn đều tùy thuận, tuy nhiên trong tùy thuận đó có trí huệ cao độ, nhà Phật thường nói là “thiện xảo phương tiện”, nên ông có thể tránh miễn được sự tổn hại của người nhà đối với ông, có thể bảo toàn tính mạng của mình; ông bằng tâm chân thành, tâm yêu thương mà phụng sự cha mẹ, anh em. Đây là việc mà người thường không làm nổi, nhưng ông làm được. Cho nên Khổng tử tán thán ông:

 
[Viết: tông miếu hưởng chi, tử tôn bảo chi, giai chí luận dã]. (Tổ tiên được hưởng việc tế tự nơi tông miếu, con cháu đời đời hưởng phúc, bảo tồn cơ nghiệp của tổ tông, đều là những lời nghị bàn chí lí.)
 

Ngoại tổ phụ của Khổng tử cùng Khổng phu tử tán thán đại Thuấn, đây đều là danh ngôn chí lí.


[Thí dĩ vãng sự vi chi].

 
Lại đưa ra những gia đình tích thiện đời xưa, bạn xem xem sự phát đạt của hậu nhân họ, trong lịch sử có ghi chép lại. Hiện tại trong xã hội, chúng ta cũng có thể xem thấy. Phía dưới ông cử ra mười ví dụ. Người thứ nhất là:

 [Dương thiếu sư Vinh, Kiến Ninh nhân, thế dĩ tế độ vi sanh, cửu vũ khê trướng, hoành lưu xung hủy dân cư, nịch tử giả thuận lưu nhi hạ, tha chu giai lao thủ hóa vật, độc thiếu sư tằng tổ cập tổ, duy cứu nhân, nhi hóa vật nhất vô sở thủ, hương nhân xi kì ngu.]

 
(Thiếu Sư Dương Vinh, người Kiến Ninh. Tổ tiên ông đều sống bằng nghề đưa đò. Có lần trời mưa lâu ngày ngập lụt, nước chảy xiết cuốn trôi nhà cửa, người dân và súc vật. Các thuyền khác lo vớt của cải trôi trên mặt nước, còn ông cố và ông nội của Thiếu Sư chỉ lo cứu người, không lấy của. Dân làng cho họ là ngu.)

 Chúng ta xem trước một đoạn. Dương Vinh, làm quan đến chức Thiếu Sư, Thiếu sư là thầy của hòang đế thời xưa. Thầy của vua thì gọi là Thái sư hoặc Thiếu sư; đại đa số thiếu sư là thầy của Thái tử. Còn thầy của vua thì gọi là Thái sư, phần lớn gọi thầy của thái tử là Thiếu sư. Cho nên, lão sư được xưng hô gồm có Thái sư, Thái phó và Thái bảo.


Dương thiếu sư Dương Vinh, “Kiến Ninh nhân”, Kiến Ninh hiện tại là Kiến Âu, tỉnh Phúc Kiến. Tôi đã ở nơi đây hết 6 năm, nhà của Dương Vinh tôi đã tới qua, là nhà tứ hợp viện ba mặt rất lớn. Hiện tại hình như đã đổi thành thành phố Kiến Âu rồi. Tổ tiên của ông, đời đời kiếp kiếp đều là “dĩ tế độ vi sanh”, đây là nói nghề chèo đò, là làm cái nghề nghiệp này. Do đó có thể biết, đời sống của họ cũng vô cùng gian khổ.
 

Ở đây gặp phải một trận mưa lớn. Mưa kéo dài, nước sông dâng cao gây ngập lụt. Con sông này hình như là thượng du sông Mân Giang, từ Phúc Châu chạy thẳng ra biển. Nước dâng lên ngập hết làng mạc cư dân, rất nhiều người bị ngập chết, người chết đuối thuận theo dòng chảy mà trôi xuống. Đương nhiên, người chèo thuyền cũng rất nhiều. Nhưng họ đều đi nhặt tài vật, không ngó ngàng đến người bị chìm trôi trong nước, họ chỉ lo tìm kiếm của cải mà thôi. Duy chỉ có tổ tiên của Dương Vinh, chính là ông nội và ông cố của ông là lo đi cứu người. Người dân làng nhìn thấy việc làm của họ, đều nói rằng họ ngu si, “cứu người nào có ích lợi gì chứ? Rất nhiều của cải của người khác trôi nổi trên măt nước, bạn nhặt được thì là của bạn”. Nhưng tổ tiên của Dương Vinh không cần tiền mà chỉ lo cứu người, đây chính là tích đức.
 

[Đãi thiếu sư phụ sanh, gia tiệm dụ]

 
Đến khi cha của Dương Vinh ra đời, hòan cảnh gia đình của ông dần dần phú quý sung túc.
 
[Hữu thân nhân hóa vi đạo giả, ngữ chi viết, nhữ tổ phụ hữu âm công, tử tôn đương quý hiển, nghi táng mỗ địa, toại y kì sở chi nhi biếm chi, tức kim chi bạch thố phần dã, hậu sanh thiếu sư, nhược quan đăng đệ, vị chí tam công, gia tằng tổ tổ phụ như kì quan, tử tôn quý thịnh, chí kim thượng đa hiền giả].

 (Có vị thần hóa thành một ông đạo sĩ đến nói: Ông nội của ông có nhiều âm đức, cho nên con cháu sẽ vượng thịnh. Ông có thể chôn cất họ ở nơi này. Cha Thiếu Sư nghe lời làm theo. Đó là Mồ Thỏ Trắng nổi tiếng hiện nay. Sau đó Thiếu Sư ra đời, hai mươi tuổi đã đậu tiến sĩ và làm quan đến Tam Công. Sau đó hoàng đế còn truy phong ông cố, ông nội và cha của Thiếu Sư đều là Thiếu Sư. Con cháu của Thiếu Sư rất thịnh vượng. Mãi đến bây giờ vẫn còn có nhiều người tài giỏi.)

 Đây là lấy câu chuyện của Dương Vinh để chứng minh cho “gia đình tích thiện, tất hữu dư khánh”. Ông cố, ông nội của ông tuy là nghèo khó, nhưng đến đời của cha ông thì hòan cảnh gia đình dần dần chuyển biến tốt hơn. Lúc này có một vị đạo trưởng, ở đây viết là “thần nhân hóa vi đạo trưởng”, chúng ta chỉ nói là “có một vị đạo trưởng”, nói với cha của ông rằng: “tổ phụ của ngươi có tích âm công”. Tổ phụ chính là ông cố của Dương Vinh, “từng đã cứu rất nhiều mạng người, cho nên có âm công”, con cháu đời sau nhất định được phú quý vinh hiển.

  [Nghi táng mỗ địa], đạo trưởng chỉ dạy cho ông, đây là phong thủy mà người Trung quốc chúng ta nói đến, có một khu đất có phong thủy rất tốt. Cha của Dương Vinh, liền đem ông nội của ông mai táng ở chỗ người đạo trưởng nói, chính là “bạch thố phần-mồ thỏ trắng” ngày nay.

 [Hậu sanh Thiếu sư], về sau Dương Vinh ra đời. “Nhược quan đăng đệ”, nhược quan là hai mươi tuổi, hai mươi tuổi thì thi đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Tam công, Thiếu sư là một trong tam công. Hòang đế đối với ông vô cùng cảm kích, truy phong ông cố, ông nội và cha của ông là “như kỳ quan-chức quan như ông”. Quan vị của ông là Thiếu Sư, cho nên ông cố, ông nội, và cha ông đều được truy phong là Thiếu Sư.

 [Tử tôn quý thịnh], (con cháu phú quý hưng thịnh) mãi cho đến ngày nay. Từ “kim” này là chỉ cho đời của Liễu Phàm tiên sinh, thời đại này chính là thời Minh Triều, trong gia đình ông vẫn còn rất nhiều hiền nhân, đời đời đều là hiền nhân, đây là tổ tông tích đức.

 Vị thứ hai là:

 [Ngân nhân Dương Tự Trừng].

 
“Ngân” hiện tại là thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, thời xưa gọi là huyện Ngân. Có một vị tiên sinh tên là Dương Tự Trừng.

 [Sơ vi huyện lại]

 Ông làm quan thư biện trong huyện nha, giống như chức quan thư kí hiện nay, cũng đồng như quan văn thư. Người này:

 [Tồn tâm nhân hậu, thủ pháp công bình]

 Đây là đức hạnh của ông, ông tâm địa nhân hậu, hết mình vì người. “Thủ pháp công bình”- làm việc công bằng, quyết không nhận hối lộ của người khác.


[Thời huyện tể nghiêm khắc]

 [Thời] là chỉ cho đương thời, đây là nói vị quan huyện này vô cùng nghiêm khắc.


[Ngẫu thát nhất tù]

 Ngẫu nhiên cho người đánh một phạm nhân.

 [Huyết lưu mãn tiền, nhi nộ do vị tức]

 Phạm nhân này gặp cơn thịnh nộ của quan huyện, quan huyện cho người đánh anh ta một trận rất nặng, đánh đến nỗi toàn thân đổ máu, mà cơn giận của ông ta vẫn chưa tan.

[Dương quỵ nhi khoan giải chi]

 

Dương Tự Trưng quỳ xuống đất cầu xin dùm cho phạm nhân đó.

 

[Tể viết]. Vị quan huyện nói:

 

[Chẩm nại thử nhân việt pháp bội lí, bất do nhân bất nộ].

 

Ông cầu xin giúp phạm nhân đó. Vị quan huyện nói: phạm nhân này làm quá nhiều điều xấu, “bất do nhân bất nộ-không thể khiến người không nổi giận”, vị quan huyện nói ra lí do ông nổi giận.

 

[Tự Trừng khấu thủ viết]

 

Dương Tự Trừng hướng đến quan huyện trình thưa.

 

[Thượng thất kỳ đạo, dân tán cửu hĩ, như đắc kỳ tình, ai căng vật hỉ, hỉ thả bất khả, nhi huống nộ hồ, tể vi chi tễ nhan.]

 

(Người trên lỗi đạo, khiến dân tâm thất tán từ lâu rồi, quan trên nếu hiểu rõ tình trạng phạm pháp của dân thì nên thương xót họ, chẳng nên thấy mình xét xử án được phân minh mà vui thích, vui còn chẳng nên huống hồ lại giận dữ sao! Quan huyện nghe nói tỉnh ngộ mà nguôi cơn thịnh nộ.)

 

Dương Tự Trừng nói được rất hay! [Thượng thất kỳ đạo-người trên lỗi đạo], câu nói này rất không dễ dàng nói ra được, từ chỗ này xem thấy, ông thực sự là tâm tính nhân hậu, không sợ bản thân bị mất chức, ông nói ra lời thật.

 

 “Thượng” là chỉ cho triều đình. Hiện tại bản thân triều đình có lỗi, nhân dân đối với triều đình đã mất đi lòng tin. Do đây có thể biết, bách tính phạm pháp, lỗi tại nơi đâu? Lỗi tại không người giáo dục họ. Ai phụ trách việc giáo dục? Giáo học nhà Nho cho rằng là quan viên địa phương, là huyện trưởng; thời xưa quan tri huyện được xưng là “quan phụ mẫu”, ngài là cha mẹ của nhân dân địa phương này, ngài là thầy của dân, ngài là lãnh đạo của dân.

 

 Nho gia nói “tác chi quân, tác chi thân, tác chi sư”; chữ “chi” là chỉ nhân dân. Người đứng đầu địa phương này là lãnh đạo của nhân dân, là cha mẹ của nhân dân, là thầy giáo của nhân dân, học trò của anh làm việc sai trái, là do anh dạy dỗ họ không tốt. Đây là “người trên thất trách”, hàm nghĩa ở đây rất sâu rộng.

 

Dương Tự Trừng thật sự có đảm lược và học thức, ông có đức hạnh, can đảm, có học vấn và dám nói lời thật: Ngài thẩm vấn anh ta, thẩm vấn được sự tình, anh ta thật sự đã làm nhiều việc xấu, đáng phải chịu hình phạt nặng, nhưng ngài nên thương xót anh ta chứ không thể sinh lòng vui mừng; “hỉ thả bất khả, nhi huống nộ hồ”, ngài làm sao có thể nổi giận chứ? Quan huyện cũng không tệ, nghe được lời nói của Dương Tự Trừng, cơn thịnh nộ của ông cũng giảm xuống ôn hòa hơn, không còn giận dữ nữa.

 

[Gia thậm bần]. Gia cảnh của Dương Tự Trừng rất bần hàn.

 

[Quỹ di nhất vô sở thủ]

 

Đương nhiên, ông có thể giúp đỡ những người khổ nạn này, đặc biệt là những phạm nhân này, ông ấy có tâm thương xót nên thường thường giúp đỡ họ. Người ta đương nhiên có nhiều người mang lễ đến nhờ cậy ông, nhưng ông “nhất vô sở thủ-một thứ cũng không nhận”, ông là đại công vô tư, dựa vào lương tâm của bản thân mà làm, tuyệt đối không nhận hối lộ.

 

[Ngộ tù nhân phạp lương]. Gặp những lúc cơm tù cho phạm nhân bị thiếu hụt.

 

[Thường đa phương dĩ tế chi]

 

Ông ngày ngày lo nghĩ phương cách để giúp đỡ họ, ông đến những người có thể hành thiện, xin họ giúp đỡ, để những phạm nhân đó có thể được ăn no.

 

[Nhất nhật], có một ngày.

 

[Hữu tân tù số nhân đãi bộ].

 

Phạm nhân mới đến, có một số người không được ăn uống

 

[Gia hựu khuyết mễ]. Trong nhà không còn gạo.

 

[Cấp tù tắc gia nhân vô thực]. Ông lấy gạo trong nhà để cấp cho tù nhân, thì người trong nhà ông sẽ không có cơm để ăn.

 

[Tư cố tắc tù nhân kham mẫn]. Nghĩ thấy tù nhân rất đáng thương.

 

[Dữ kỳ thê thương chi]. Ông cùng với vợ mình thương lượng.

 

[Thê viết: tù tùng hà lai. Viết: Tự Hàng nhi lai. Duyên lộ nhẫn cơ, thái sắc khả cúc.]

 

Vợ của ông hỏi: Những tù nhân này từ đâu đến? Là từ Hàng Châu đến. Trên đường đi phải chịu đói rét, sắc mặt đều rất khó coi, mặt mũi vàng vọt.  

 

[Nhân triệt kỉ chi mễ chử chúc dục dĩ thực tù]. Đem một nửa số gạo của mình cho phạm nhân, trong nhà mình thì nấu cháo mà ăn.

 

[Hậu sinh nhị tử]

 

Về sau, Dương Tự Trừng sinh được hai con trai.

 

[Trưởng viết Thủ Trần, thứ viết Thủ Chỉ, vi nam bắc Lại Bộ Thị Lang]. (Con lớn tên là Thủ Trần, con nhỏ tên là Thủ Chỉ. Cả hai đều làm quan đến Lại Bộ Thị Lang)

 

Đây là quả báo, bản thân ông tích thiện tích đức, con cháu của ông liền được phú quý, vinh hiển. Hai người con của ông làm đến Lại Bộ Thị Lang ở miền Nam và miền Bắc. “Thị Lang” địa vị này ngày nay gọi là Phó Bộ trưởng. “Lại Bộ”, thời đó không gọi là bộ trưởng mà gọi là thượng thư, thượng thư là bộ trưởng, còn thị lang là phó bộ trưởng.

 

[Trưởng tôn vi Hình bộ thị lang] (Người cháu lớn làm quan Hình Bộ Thị Lang).

 

“Hình bộ” chính là Bộ Tư Pháp, Bộ Pháp Vụ ngày nay, cũng đều làm đến Thứ trưởng.

 

[Thứ tôn vi Tứ Xuyên liêm hiến] (Người cháu nhỏ làm quan Liêm-Hiến ở tỉnh Tứ Xuyên)

 

[Liêm hiến] là tên gọi của chức quan ngày xưa, về sau đến thời Minh gọi là Án sát sứ, thông thường được gọi là khâm sai đại thần.

 

[Hựu cụ vi danh thần]. Đương thời cả hai đều là đại thần hiền đức nổi tiếng.

 

[Kim Sở Đình, Đức Chánh]. Trong các trước tác lịch sử không có ghi tỉ mỉ về họ. “Kim” là thời đại của Liễu Phàm tiên sinh. Sở Đình, Đức Chánh hai vị này:

 

[Diệc kỳ duệ dã]. Cũng là hậu duệ của ông, là đời sau của Dương Tự Trừng. Đây là một quan thư biện nhỏ của huyện nha.

 

Do đây có thể biết, tích công lũy đức, không luận bản thân chúng ta cuộc sống hiện tại ra sao, trong xã hội có địa vị gì, làm nghề nghiệp gì, đều có thể làm thiện. Cơ hội thật là quá nhiều quá nhiều, chỉ cần có tâm làm lợi ích cho xã hội, lợi ích cho nhân dân, chính là tích công lũy đức. Làm việc tốt, không cầu quả báo, cái công đức này càng lớn hơn; không cầu quả báo, nhất định sẽ có quả báo thù thắng. Thiện tích được lớn, thiện tích được nhiều, bản thân mình sẽ cảm được quả báo. Giống như Liễu Phàm tiên sinh là một ví dụ, Du Tịnh Ý tiên sinh (người cùng thời với Viên Liễu Phàm) cũng là một ví dụ, cuối đời hưởng được quả báo, quả báo kéo dài đến đời con cháu ông ta.

 

Ví dụ thứ ba là:

 

[Tích Chánh Thống gian]. “Chánh Thống” là niên hiệu Anh Tông triều Minh.

 

[Đặng Mậu Thất xướng lọan ư Phúc Kiến]  

 

Đặng Mậu Thất là một đạo phỉ đương thời, tức là cường đạo, là thổ phỉ, anh ta làm loạn tại khu vực Phúc Kiến.

 

[Sĩ dân tùng tặc giả thậm chúng, triều đình khởi Ngân huyện trưởng Đô Hiến Giai Nam chinh, dĩ kế cầm tặc.]

 

(Sĩ dân theo giặc rất đông. Triều đình cử quan Đô Hiến là Trương Giai người huyện Ngân, xuất quân xuống phương Nam, diệt trừ quân giặc.)

 

Hoàng đế Anh Tông dùng Trương Giai của huyện Ngân dẫn binh nam chinh, đem lọan này bình đình trở lại, bắt giữ Đặng Mậu Thất, nhưng vẫn còn lại một vài dư đảng.

 

[Hậu ủy Bố chánh tư Tạ Đô Sự, sưu sát đông lộ tặc đảng.]

 

Kẻ cầm đầu bọn thổ phỉ đã bị bắt giữ, nhưng bên dưới vẫn còn có dư đảng. Cho nên triều đình lại ủy phái Bố chánh tư Tạ Đô Sự, Bố chánh tư tương đương với tỉnh trưởng hiện nay, Đô sự là một chức quan dưới Bố chánh tư, phái Tạ đô sự đi giết tặc đảng ở đường phía Đông, chính là để bình định một số còn sót lại.

 

[Tạ cầu tặc trung đảng phụ sách tịch]

 

Vị Tạ đô sự này rất khó có được, đầu tiên ông tìm phương pháp truy ra danh sách bọn tặc đảng.

 

[Phàm bất phụ tặc giả]

 

Trong số tặc đảng, trên danh sách không có tên của những người này.

 

[Mật thụ dĩ bạch bố tiểu kì, ước binh chí nhật, sáp kì môn thủ, giới quân binh vô vọng sát, toàn hoạt vạn nhân.]

 

Đây là tướng lĩnh thống lãnh binh lính, ông hiểu được tích đức, không giết người oan uổng, không lạm sát người vô tội. Cho nên, ông dụng tâm đi thu thập danh sách của giặc đảng. Nếu như người nào không thực sự thuộc vào giặc đảng, ông không thể để người khác phải chịu oan uổng. Quan binh tiến vào thành tìm kiếm, ông dạy những người không liên quan đến tặc đảng, ông đưa cho họ một lá cờ trắng, dặn khi quan binh vào thành, “các ngươi đem là cờ này treo ở trước cửa nhà”, và ông cấm quan binh không được quấy nhiễu họ. Nhờ vậy “tòan hoạt vạn nhân-bảo toàn tính mạng cho vạn người”, đây là công đức ông tích được.

 

Trong lịch sử Trung Quốc, từ xưa đến nay, có người làm tướng quân, có người làm đại tướng quân, người có thể bảo toàn được hậu duệ rất ít. Nguyên nhân tại sao? Do sát hại quá nhiều người, cho nên đời sau của họ đều không tốt. Trong số các võ tướng Trung Quốc, người có hậu nhân tốt xác thực là không nhiều, trên lịch sử chân thật số lượng đó có thể nêu ra được. Những người làm tướng quân này đều coi trọng tính mạng con người, tuyệt đối không lạm sát, kỉ luật quân đội rất nghiêm khắc, nhờ vậy mới có thể bảo toàn được đời sau.

 

[Hậu Tạ chi tử Thiên, trúng trạng nguyên, vi Tể phụ, tôn Phi, hậu trúng Thám Hoa].

 

Đây là nói quả báo của hậu nhân Tạ đô sự. Con trai của ông là Tạ Thiên đậu trạng nguyên, làm quan đến chức tể tướng. Cháu của ông là Tạ Phi, thi đỗ Thám Hoa, Thám Hoa là hạng thứ ba của cấp bậc Tiến sĩ. Đây đều là những chứng nghiệm cho việc “tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh”.

 

Lại nói với chúng ta, ở Bổ Điền có Lâm gia:

 

[Bổ Điền Lâm thị, tiên thế hữu lão mẫu hiếu thiện, đương tác phấn đoàn thí nhân, cứu thủ tức dữ chi, vô quyện sắc].

 

Đây là nói đến Bổ Điền, cũng là tại Phước Kiến. Đời trước của ông có lão mẫu hiếu thiện, đây là tổ mẫu đời trước của ông thích làm việc thiện, thường thường làm bánh bao bố thí cho người, bố thí cho những người nghèo khổ. Mỗi ngày đều làm như vậy, cả đời đều không mệt mỏi, ngày ngày dùng cách này để bố thí, có người đến xin bà, ai ai bà cũng đều cho, một tơ hào cũng không chán mỏi, mỗi ngày đều làm việc bố thí.

 

Làm việc thiện, hết lòng mà làm. Dùng thiện đối đãi với người, bản thân quyết định có quả báo tốt, không phải sợ chịu thiệt thòi, không sợ bị lừa. Ngạn ngữ thường nói: “Chịu thiệt được phước”, cho nên chúng ta thường thường nghĩ, chúng ta không có cái cơ duyên này, nếu như tôi có cơ hội này, tôi tình nguyện mở một nhà hàng, mở một nhà hàng miễn phí để cúng dường mọi người.

 

Hiện tại chúng ta tại cư sĩ Lâm-Tân Gia Ba, tôi đem cách nghĩ này của tôi nói với cư sĩ Lí Mộc Nguyên, cư sĩ Lí Mộc Nguyên đã chân thật làm trong ba năm. Mỗi ngày đều cúng dường cơm chay, là hoàn toàn miễn phí. Bình quân mỗi ngày đến cư sĩ Lâm ăn cơm có đến môt ngàn người, cuối tuần có đến ba, bốn ngàn người. Đây là việc tốt!

 

Cư sĩ Lâm có bị người ăn đến sụp đổ không? Không có, càng ăn càng hưng vượng. Gia nhân nhiều, vì có nhiều người như vậy đến ăn mà! Từ khi bắt đầu đến nay, nói cho chư vị hay, là chưa từng đi mua gạo, cũng không mua dầu, không phải mua rau, vậy mà ăn không hết. Nguyên nhân tại đâu? Mọi người biết được cư sĩ Lâm làm việc tốt, nên ngày ngày đều có người mang gạo đến, có người mang dầu đến, có người mang rau đến. Mang đến cúng dường rất nhiều, ăn không hết. Ăn không hết thì phải làm sao? Chúng tôi mang đồ dư như gạo, rau đó đến cúng dường cho các viện dưỡng lão, cúng dường cô nhi viện. Cho nên, ở Tân gia ba những viện dưỡng lão, cô nhi viện của nhiều tôn giáo đều nhận đồ cúng dường của chúng tôi. Đây là việc tốt!

 

Hôm nay chỉ giảng đến đây thôi.

 


Ngủ rồi love_noborder


 


Ngủ rồi be-buti

Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 11)

2013-06-19 14:46:34

(PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 18/04/2001.

 

 

Chư vị đồng tu, xin chào mọi ngừơi!

 

Chúng ta tiếp tục xem đoạn văn phía dưới.

 

[Dĩ thượng sự nhi kiêm hành hạ công, vị vi thất sách, chấp hạ nhi muội thượng, tắc chuyết hỹ.]

 

Đây là thái độ học tập, cũng là vô cùng quan trọng. Người thượng căn tuy là từ trên tâm mà sửa, từ khởi tâm động niệm mà sửa, quyết không thể coi thường trên mặt sự tướng. Không thể nói: “tâm tôi rất thanh tịnh, nên giới điều không cần phải tuân thủ” đây là sai rồi. Sai ở chỗ nào? Cho dù bạn có công phu, thì công phu đó của bạn không chân thật? Tại sao? Bạn là người có công phu thật sự, nhất định sẽ có tâm từ bi; bạn có từ bi tâm, bạn nhất định sẽ làm một tấm gương tốt, làm một mô phạm tốt cho người khác. Đây là lợi người, cũng chính là tự lợi lợi tha. Cho nên điều này là đúng là chính xác, tức là người thượng căn thời thời khắc khắc luôn chiếu cố đến người hạ căn. Chúng ta đối với giới điều mà Đức Thế Tôn chế định ra, mỗi điều đều phải tuân thủ. Giới điều mở rộng ra chính là luật pháp của quốc gia, chúng ta nhất định phải tuân thủ; trì giới, nói rộng ra chính là tuân thủ pháp luật. Trong Giới kinh đại thừa, Phật nói được rất rõ ràng, rất minh bạch. Trong  “Kinh Phạm Võng”, Phật nói với chúng ta, Bồ Tát nhất định phải tuân thủ “bất báng quốc chủ-không nói xấu lãnh đạo”, quốc chủ là người lãnh đạo quốc gia, quyết định là không được hủy báng; trong kinh “Anh Lạc Bồ Tát giới kinh” nói “bất lậu quốc thuế-không trốn thuế nhà nước”. Từ xưa đến nay, trong nước ngoài nước, nhân dân đối với quốc gia có nghĩa vụ nộp thuế, không thể trốn thuế, những điều giống như vậy đều thuộc về trì giới.

 

Quy định, pháp lệnh và hiến chương của đất nước, đây là hữu hình; còn vô hình chính là quan niệm đạo đức, tập quán phong tục, đều phải tuân thủ. Trong xã hội hiện đại, do giao thông tiện lợi, thông tin phát triển, nên chúng ta thường có cơ hội ra nước ngoài du lịch. Đến quốc gia khác, pháp luật của họ cùng với Trung Quốc không giống nhau, phong tục tập quán cũng không giống Trung Quốc, nên nhập gia phải tùy tục. Đến quốc gia khác, nhất định phải tuân thủ pháp lệnh hiến chương của họ, tuân thủ phong tục tập quán của họ, đó đều là trì giới. Cho nên, giới luật bao hàm những vấn đề rộng lớn vô biên, chúng ta phải hiểu được.

 

Nếu như “chấp hạ mà bỏ thượng”, chấp trước vào những quy tắc pháp lệnh, ý nói “chúng ta mỗi điều đều luôn tuân thủ nghiêm ngặt” nhưng không rõ lí, cũng là nói, chúng ta không hiểu được phải từ trên tâm mà sửa, phương pháp sửa này rất vụng về, không phải là cách của người thông minh. Tuy nhiên, đó cũng là một cách hay. Có thể tuân thủ được như thế, nhìn chung lỗi lầm sẽ ít hơn; tuy lỗi lầm không thể tránh miễn được, nhưng có thể giảm đi rất nhiều. Cho nên, ông nói với chúng ta sửa lỗi phải có ba tâm, cũng có ba bậc công phu không đồng, điều này nói được rất rõ ràng, rất minh bạch.

 

Đoạn phía sau nói về hiệu nghiệm của việc sửa lỗi. Sau khi sửa lỗi cảnh giới trước mắt sẽ như thế nào; cũng chính là nói, chúng ta xem thấy hiệu quả như thế nào, thành tích ra sao. Mời xem đoạn văn này:  

 

[Cố phát nguyện cải quá, minh tu lương bằng đề tỉnh, u tu quỷ thần chứng minh, nhất tâm sám hối, trú dạ bất giải.]

 

“Cố”, từ này dùng cách nói hiện nay mà nói, chính là ý nghĩa “tuy nhiên, nhưng mà”. Tuy rằng, tuy là đã phát nguyện sửa lỗi, nhưng cần phải có sự giúp đỡ. “Minh”, là minh hiển, rõ ràng. Cần có “lương bằng đề tỉnh”, tức là cần có bạn bè tốt chân thật, thời thời khắc khắc để nhắc nhở bạn. Tại sao? Phàm phu vọng tưởng nhiều, chớp mắt đã quên hết. Chư vị hãy thử nghĩ xem, nếu như có một người luôn ở trước mặt bạn, là bạn tốt của bạn, thường thường đề tỉnh cho bạn, bạn có cảm thấy anh ta ồn ào, phiền phức không? Chân thật là có, đích thực là bạn sẽ ngại anh ta ồn ào, ngại anh ta phiền toái. Cho nên, giáo học của nhà Phật, chúng ta không thể không bội phục Thích Ca Mâu Ni Phật thông minh trí huệ. Phật dùng phương pháp gì? Phương pháp này chính là trường học hiện tại  gọi là “công cụ giáo học”, Phật dùng danh hiệu, dùng nghệ thuật này, thời thời khắc khắc đề tỉnh bạn.

 

Danh hiệu, thí như “Thích Ca Mâu Ni Phật” cái danh hiệu này, đây không phải là tên của Phật. Tên gốc của ngài, trên kinh điển ghi lại gọi là “Tất Đạt Đa”. Nhưng ngài quen dùng cái danh hiệu này, cái danh hiệu này đề tỉnh chúng ta. Tuy nhiên những cổ nhân dịch kinh thời xưa, phiên chữ Thích Ca Mâu Ni Phật hoàn toàn dùng âm tiếng phạn, không dịch ra ý nghĩa của nó. Người hiện đại chúng ta nghe đến danh hiệu này thì mù mờ, không hiểu được ý nghĩa của nó. Cổ nhân hiểu được, thời xưa người giảng kinh nhiều, người dạy học nhiều. Vì thế thông thường tự viện đều là trường học, pháp sư xuất gia là thầy giáo, họ ngày ngày ở đây tự mình nghiên cứu, giảng dạy cho đại chúng, tự viện là trường học, cho nên mọi người (lúc đó) hiểu được.

 

“Thích Ca”, ý nghĩa của nó là “nhân từ”. Chúng ta đối người tiếp vật thiếu mất nhân từ, thường thường nghĩ đến tự tư tự lợi, tổn người lợi mình, đều là khởi loại ý niệm này, làm những sự việc này, đây là sai rồi. Cho nên, Phật dùng danh hiệu “Thích Ca”, nghe đến danh xưng này, “chúng ta đối người phải nhân từ, phải có thể làm được xả kỉ vị nhân”. “Mâu Ni”, ý nghĩa của hai chữ này là thanh tịnh. Đối với bản thân phải thanh tịnh, đối với người khác phải nhân từ, dùng cái danh hiệu này thường thường đề tỉnh bản thân. Bản thân chúng ta niệm danh hiệu này để đề tỉnh bản thân, nghe người khác niệm danh hiệu này cũng là để nhắc nhở bản thân. Trong gia đình mình có một niệm Phật đường nhỏ, hoặc là có một phòng khách, trong phòng khách chúng ta cúng dường một tôn tượng Phật, viết danh hiệu Phật lên hai bên, giống như một cặp đối liên vậy. Cái này chính là “tràng phan” mà mọi người xem thấy trong các tự viện, phía trên tấm phan đều là danh hiệu của Phật, Bồ Tát. Dùng để làm gì? Để đề tỉnh bản thân. Trong nhà Phật dùng phương pháp này.

 

Tượng Phật, tượng Bồ Tát, cũng là để nhắc nhở chúng ta, khiến chúng ta vừa nhìn thấy liền hiểu được ý nghĩa đại biểu cho chúng. Thích Ca Mâu Ni Phật đại biểu cho từ bi, thanh tịnh. Ở Trung Quốc thờ phụng Quán Thế Âm Bồ Tát rất nhiều rất nhiều, Quán Thế Âm Bồ Tát đại biểu cho từ bi, đại từ đại bi. “Đại từ đại bi” dùng từ hiện tại của chúng ta mà nói, là tâm yêu thương vô điều kiện, ái hộ nhất thiết chúng sanh. Chúng sanh có khổ nạn, vô điều kiện, tòan tâm toàn lực mà giúp đỡ họ, đây là Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhìn thấy tượng của Quán Thế Âm Bồ Tát, liền nghĩ đến: “mình đối với tất cả chúng sanh phải từ bi, từ bi vô điều kiện, thì cũng giống như Quán Thế Âm Bồ Tát không khác, giúp đỡ tất cả chúng sanh”. Thì Quán Thế Âm Bồ Tát chính là ta. Đề tỉnh ta, dùng cái danh hiệu này để đề tỉnh ta, ta phải bắt chước Quán Thế Âm Bồ Tát, chúng ta phải học tập Quán Thế Âm Bồ Tát, là ý nghĩa này. Cho nên cúng dường tượng Phật công đức rất lớn. Lớn tại chỗ nào? Thường thường đề tỉnh bạn.

 

Thờ cúng Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát là đại biểu cho hiếu, hiếu thân. Địa là đại địa, Tạng là bảo tàng. Con người chúng ta sống trên quả địa cầu này, không thể li khai khỏi đại địa; y phục, ẩm thực, chỗ cư trụ của chúng ta đều dựa vào sự cúng dường của đại địa, Trên đất, bất kể là sống tại đâu, năm loại lương thực mà cuộc sống thường nhật của chúng ta cần, đều là bảo tàng của đất sanh ra. Dưới đất, tài nguyên vô cùng phong phú, vàng bạc châu báu để cúng dường cho nhu cầu sống của chúng ta. Phật dùng từ “Địa”, đại biểu cho tâm địa của chúng ta; Tạng, trong chân tâm, tâm địa của chúng ta có vô lượng trí huệ, có năng lực vô lượng, đức chính là năng lực, có vô lượng tướng hảo, chúng ta cần phải khai thác. Dùng phương pháp gì để khai thác? Dùng “hiếu thân tôn sư”, chính là hiếu đạo cùng sư đạo. “Địa tạng bổn nguyện kinh” chính là nói về hiếu đạo và sư đạo, dùng cách này để khai thác. Cho nên chúng ta nhìn thấy tượng của Địa Tạng Bồ Tát, nghe được danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát, chúng ta liền hiểu được “hiếu thân tôn sư”, chúng thời thời khắc khắc đề tỉnh chúng ta. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đề tỉnh cho chúng ta trí huệ, phải cầu trí huệ. Phổ Hiền Bồ Tát đề tỉnh chúng ta, phải chân thật áp dụng vào trong đời sống sinh hoạt; giống như nhân từ, thanh tịnh của Phật Thích Ca, từ bi của Quan Âm, hiếu kính của Địa Tạng, trí huệ của Văn Thù, mỗi mỗi đều phải chân thật áp dụng trong cuộc sống thường nhật của chúng ta, áp dụng trong công việc, áp dụng trong xử sự, đối người, tiếp vật, đó gọi là “Phổ Hiền”. Giáo học trong nhà Phật, bạn nói có kì diệu hay không! Cho nên, hình tượng của tất cả Phật, Bồ Tát trong Phật giáo; tất cả các hình tượng thần minh này, mỗi mỗi đều là giáo học, đều là biểu pháp, tuyệt đối không phải là mê tín, tuyệt đối không được đem họ làm thần minh để cúng bái, đó là bạn sai lầm lớn rồi. Dùng phương pháp này để đề tỉnh chúng ta! Nếu như có một người bên cạnh ngày ngày đề tỉnh chúng ta, chúng ta có thể sẽ thấy họ phiền phức, sẽ chán ghét họ, thậm chí có thể oán hận họ. Nhưng nếu dùng những vật phẩm nghệ thuật để ở bên cạnh bạn, có thể khiến bạn vui vẻ, lại có thể nhắc nhở bạn, bạn nói xem tốt biết bao nhiêu!

 

Lần trước, tôi đi thăm đài truyền hình Phụng Hoàng, gặp được Thường tiên sinh, trong phòng của ông bài trí rất nhiều tượng của Di Lặc Bồ Tát. Tôi xem thấy, ông ấy có điểm giống Di Lặc Bồ Tát, bụng to, người mập mạp. Di Lặc Bồ Tát đại biểu cho “hoan hỉ tâm”, nhà Phật thường nói: “bình đẳng, từ bi” sanh bình đẳng tâm, thành hỉ duyệt tướng. Chúng ta xử sự đối người tiếp vật, tâm phải bình đẳng, vẻ mặt phải đoan trang, phải hoan hỉ. Điều này dạy cho ta làm thế nào để cư xử với mọi người, hòan toàn là biểu pháp. Pháp danh của người xuất gia chúng ta cũng không ngoại lệ. Tôi xuất gia, sư phụ đặt cho tôi một cái tên gọi là “Tịnh Không”, tôi rất hoan hỷ. Người khác một khi nói đến cái tên này, tôi liền nghĩ: “Tôi có thanh tịnh hay không, tôi có buông xả không?” Buông xả thì là Không rồi. Nói ra danh hiệu này, tôi liền nghĩ: “Tôi đã làm được chưa, phẩm cách có được như tên gọi hay không?” Nếu như tên gọi cùng phẩm chất chân thật không tương xứng, chúng ta phải sanh tâm hổ thẹn, chúng ta có lỗi với tên gọi đó. Cho nên, danh hiệu của Phật vô lượng vô biên, đại biểu cho tu đức của chúng ta. Tánh đức, chúng ta là phàm phu, chúng ta bị mê hoặc mất tự tánh, cho nên tánh đức không hiển lộ được, cần phải dựa vào tu đức. Tu đức có công phu, thì tánh đức liền hiện tiền, là ý nghĩa như vậy.

 

Phật giáo không chỉ là danh tự, tạo tượng nghệ thuật cũng là một cách biểu pháp, cho nên tất cả cách thức, không cách nào không phải là biểu pháp, ngay cả kiến trúc cũng không ngoại lệ. Các bạn nếu như chú ý sẽ thấy, khi các bạn vào trong các chùa miếu nhà Phật, bạn xem thấy chánh điện thờ Thích Ca Mâu Ni Phật được gọi là “Đại hùng bảo điện”, bạn xem kiến trúc của nó, bên ngoài xem thấy có hai tầng, bên trong là một tầng, đều là để đề tỉnh chúng ta. Bên ngoài hai tầng dạy chúng ta phải biết tùy tục, “Phật pháp tại thế gian, bất hoại thế gian pháp”. Bên trong thì cần phải bình đẳng, nên bên trong không thể có hai kiểu; bên ngoài có thể không bình đẳng, bên trong quyết định phải bình đẳng. Bên ngoài bình đẳng, thì trật tự xã hội sẽ bị phá hoại. Bên ngoài nhất định có tôn ti, có cha con, có huynh đệ, có già trẻ; đó là có trật tự; không thể đem trật tự này phá hoại được. Hai tầng bên ngoài biểu thị cho trật tự xã hội, quyết định phải tuân thủ, bên trong quyết định phải bình đẳng. Ý nghĩa vô cùng hay!

 

Đồ vật cúng đều là biểu pháp. Chúng ta trước Phật thắp hương, hương là đại biểu cho cái gì? trong bài tán hương “Giới định chân hương”, Chân hương không phải chỉ cho hương mà bạn thắp, nhìn thấy hương đó liền phải biết: “Ta phải tu giới, phải tu định, phải tu huệ”. Giới định huệ là hương trong chân tâm tự tánh của ta; dạy bạn khi nghe đến hương, nhìn thấy hương, thì phải nghĩ đến “ta phải tu giới định huệ, ta phải đoạn tham sân si”, không có điều gì không phải là đề tỉnh chúng ta. Đồ cúng dường cho Phật, quan trọng nhất và đơn giản nhất là cúng dường một li nước. Những thứ khác như hoa hương, thứ gì cũng không có, hương không thắp cũng không sao, nhưng nước thì nhất định phải cúng một li. Nước đại biểu cho cái gì? Nước đại biểu cho tâm. Nhìn đến li nước, “tâm của ta có thanh tịnh như nước, một trần không nhiễm hay không?” Cho nên nước đại biểu cho thanh tịnh, bình đẳng, phải nắm được ý nghĩa này. Li nước đó không phải cúng dường cho Phật uống, mà là để cho mọi người chúng ta xem, nhìn đến li nước này, tâm của ta phải thanh tịnh, phải bình đẳng, dùng cái phương pháp này để đề tỉnh chúng ta. Không cái gì không phải là đau họng nhọc lòng nghĩ ra phương cách để dạy chúng ta, chúng ta mới thể hội được Phật đối với chúng ta, ân đức lớn lao như vậy, sắp đặt chu đáo như vậy, không thể không bội phục đến 5 vóc sát đất. Nào có phải mê tín chứ? Chư vị phải ghi nhớ, nước dùng để cúng Phật không thể dùng nước trà, trà có màu sắc, như vậy thì không thanh tịnh, biểu thị trong tâm có ô nhiễm, cho nên phải cúng nước trong. Nước trong này là dùng nước tự nhiên hoặc là nước sôi, cái đó không quan trọng, chỉ cần nước đó thanh sạch, không có thứ gì không tinh sạch bên trong, như vậy là được rồi, bạn phải hiểu được ý nghĩa biểu pháp của nó; cũng chính là “minh tu lương bằng đề tỉnh- cần có bạn tốt nhắc nhở”. Thời thời khắc khắc phải đề tỉnh chúng ta, chỉ cần một khắc không đề tỉnh, chúng ta liền sẽ bị mê mất, liền làm ra việc sai trái, liền hồ đồ mất. Cho nên cách thực thi trong giáo học nhà Phật, chân thật là rất hay. Chúng ta đến nửa sau thế kỉ 20, tức sau đại chiến thứ hai, chúng ta mới thường thường nghe đến nghệ thuật, thậm chí đấu tranh cho nghệ thuật, có khẩu hiệu “nghệ thuật hóa”. Chúng ta nghĩ đến, Phật mấy ngàn năm trước dạy học, đều thâm nhập đến nghệ thuật, dùng phương pháp nghệ thuật để dạy học.

 

[U tu quỷ thần chứng minh], “quỷ thần chứng minh” là cảm ứng. Sự việc cảm ứng thì quá nhiều quá nhiều, tôi trong đời này đã đích thân thể nghiệm qua, các bạn đồng tu cũng đem cảm ứng của họ nói với chúng tôi, việc này rất phong phú. Tu học Phật pháp chính là học làm người tốt, học làm một người minh bạch, vẫn là phải có thiện căn, phước đức, nhân duyên. Bạn nếu như không có đủ ba điều kiện trên, bạn trong đời này không có duyên gặp được, còn gọi là không có cơ hội gặp được; bạn có cơ hội gặp được, chứng minh bạn trong đời quá khứ có thiện căn, có phước đức, có nhân duyên.

 

Trước đây, khi tôi ở tại Mỹ quốc, hội Phật giáo đó của chúng tôi tại Dallas có một vị hội trưởng là cư sĩ Thái Văn Hùng, ông ấy nói với tôi nhân duyên ông ấy học Phật. Họ lớn lên ở nước ngoài, là Hoa kiều, đối với Phật pháp không tin tưởng. Năm phụ thân ông qua đời, ông về Đài Loan lo tang lễ cho cha ông, tiễn đưa cha ông. Lúc cha ông lâm chung, ông nằm trên giường, ông nhìn thấy một tượng Phật, tượng Phật này ở bên trong một cửa sổ, cái cửa sổ đó giống như một cái bàn thờ, tượng Phật ở trong đó. Ông nói ông chí ít cũng xem thấy hết 15 phút đồng hồ, thời gian dài như vậy, quyết định không thể là nhìn nhầm được. Điều đó cho ông ấn tượng sâu sắc, ông cảm thấy vô cùng kinh ngạc! Ông hỏi người khác, người khác xem không thấy gì cả. Tín tâm học Phật của ông ấy, là bắt đầu từ đây, đây là Phật đến độ ông. Về sau, ông làm ăn buôn bán, khi kiếm được tiền ông đến cửa hàng đồ cổ, ông rất thích mua đồ cổ. Trong cửa hàng đồ cổ, ông nhìn thấy một tôn tượng Phật, được điêu khắc bằng đá, tôn tượng Phật này giống như ông nhìn thấy, chính là cái tượng Phật trên cửa sổ vào ngày thân phụ ông ra đi, ông lập tức mua về. Đó là ông mua tại Trung Quốc, sau khi mua, ông mang đến Mỹ quốc. Đầu tiên là ông thờ cúng tại nhà, về sau mới đem cái sự việc này nói với tôi, tôi liền đi xem. Tôi xem xong cũng rất hoan hỷ, tôi khuyên ông đem tượng này đến thờ cúng tại đạo tràng, bởi vì ông là hội trưởng của đạo tràng, hội Phật giáo Dallas, hiện tại tôn tượng này vẫn được thờ cúng tại đạo tràng đó. Đây là ông ta nói ra nhân duyên học Phật của ông.

 

Ông lại còn kể cho tôi một sự việc rất không thể nghĩ bàn. Ông nói, có một lần ông cùng với một vài người bạn đến Cựu Kim Sơn (San Francisco); ông ấy tại bên ngoài Cựu Kim Sơn (San Francisco ) có một thị trấn nhỏ, quay về, về đến Cựu Kim Sơn (San Francisco). Lúc lái xe, ông đi nhầm đường, khi xe chạy đến một tiểu trấn nhỏ, xác thực là cái tiểu trấn này ông chưa bao giờ đi qua. Khi xe gần đến tiểu trấn, ông đột nhiên cảm thấy cái tiểu trấn này rất quen thuộc, là ông đã từng ở đây, ông có thể nhớ lại ngay tức khắc, trạng huống đường sá ở đây, kiến trúc ở đây, nói cho những người đi cùng xe nghe. Sau đó xe của họ đi tới, cùng với những gì ông nói hòan toàn giống nhau. Ông vô cùng kinh ngạc, cái sự việc này, nhiều năm trôi qua, ông vẫn không tìm ra đáp án. Khi gặp tôi, ông hỏi tôi: “Thưa pháp sư, đây rốt cuộc là nhân duyên gì vậy?”  Tôi nói: “Từ chỗ này xem thấy, đại khái đời trước ông ở tại thành phố này. Đời trước ông ở tại cái thành phố này, hơn nữa thời gian ở đó cũng tương đối lâu, nếu không, ông không thể nào biết được trạng huống của cái thị trấn này.” Ông suy nghĩ một lát, cảm thấy có đạo lí.

 

Rất có khả năng đời trước ông ấy làm thợ mỏ ở tại Cựu Kim Sơn (San Francisco), đại khái là người Trung Quốc làm thợ mỏ, sẽ sinh sống tại nơi này, chết cũng ở tại nơi này. Vẫn là suy đoán không sai, không làm điều gì xấu, đời này lại được thân người, làm ăn cũng rất tốt, lại được học Phật. Chứng thực là nghiệp nhân đời trước.

 

Sự việc tương tự như vậy, tôi gặp được rất nhiều rất nhiều, bản thân tôi cũng có một vài lần. Đến một khu vực ở nước ngoài, từ trước đến nay chưa hề đến, vừa mới tới đột nhiên cảm thấy nơi đây rất quen thuộc, hòan cảnh nơi đây không xa lạ gì. Nếu như không có đời trước, những điều này cái gì cũng giảng không thông. Bạn cho đó là linh cảm bất chợt, vậy tại sao linh cảm này không có với những nơi khác, nhất định là tại nơi này. Do đây có thể biết, người nhất định có đời quá khứ; đã có đời quá khứ thì khẳng định có đời vị lai, nhân quả thông ba đời. Cho nên, đây là cần quỷ thần đến giúp chúng ta.

 

[Nhất tâm sám hối, trú dạ bất giải]. Đây là công phu. Sám hối là sửa sai. Chúng ta niệm niệm đều có lỗi lầm, một niệm bất giác liền mê, mê thì sai sót. Cho nên, nhất định phải thời thời khắc khắc đề tỉnh, ngày đêm không thể gián đoạn. Cho nên có người hỏi tôi: “Chúng tôi ở tại gia, trong phòng ngủ có thể cúng dường tượng Phật hay không?”  Có một số pháp sư nói là: “Trong phòng ngủ mà thờ tượng Phật, đó là đại bất kính!” Câu nói này chỉ đúng một nữa, không phải là hòan toàn đúng. Làm sao lại đúng một nữa? Bạn không phải người tu hành, bạn không chịu chân thật sửa đổi làm mới, bạn đem tượng Phật thờ trong phòng ngủ, đây là bất kính, đây là có tội. Nếu như bạn là người chân chánh tu hành, sáng tối không gián đoạn muốn có người đề tỉnh mình, nếu trong phòng ngủ không có tượng Phật, thì bạn sẽ quên mất, sẽ mê mất đi. Vậy ta có thể thờ hay không? Nên thờ. Cho nên đối với người chân thật tu hành mà nói, kính hay không kính là chuyện nhỏ, mà thường đề tỉnh bản thân giác ngộ mới là chuyện lớn. Ta chân chánh giác ngộ, đó chính là cung kính; ta mê hoặc, đó chính là đại bất kính. Cái sự việc này, tóm lại cần phải thông tình đạt lí. Nếu như chỉ chấp trước trên giáo điều, sẽ giảng không được thông, đối với người chân thật hạ quyết tâm sửa đổi làm mới, cần phải bắt chước cách làm của Phật Bồ Tát, cần phải học tập Phật Bồ Tát, bất cứ chỗ nào cũng có thể thờ Phật. Người đồng với tâm ấy, tâm cùng với đạo lí ấy, tóm lại đều phải biết. Vấn đề là chúng ta có thật sự làm hay không? Có thật sự học hay không? Phía sau, đây là đưa ra một thời gian ước định để làm chứng.

 

[Kinh nhất thất nhị thất, dĩ chí nhất nguyệt nhị nguyệt tam nguyệt]

 

Qua một thất, tức bảy ngày, trải qua bảy ngày; hoặc là hai thất, mười bốn ngày, cho đến một tháng, hai tháng, ba tháng.

 

[Tất hữu hiệu nghiệm].

 

Nếu như chân thật có thể kiên trì, thì sẽ có cảm ứng. Cảm ứng những gì? Phía dưới ông có liệt kê ra một vài ví dụ nới với chúng ta. Nghiệp chướng của chúng ta tiêu trừ, tội lỗi của chúng ta tiêu trừ, thì sẽ có dự báo, là dự báo tốt. Dưới đây cử ra vài ví dụ:

 

[Hoặc giác tâm thần điềm khóang]

 

Trước đây, trong tâm luôn không vui, luôn là chán nản buồn bực, hiện tại trong lòng khoan khoái, luôn luôn vui vẻ, không giống trước kia. Đây là cảm tứng, đây là hiệu quả.

 

[Hoặc giác trí huệ thuần khai]

 

Trước đây xử sự đối người tiếp vật đều là cảm thấy bản thân rất hồ đồ, lẫn lộn, không có trí huệ. Hiện tại trải qua một thời gian đoạn ác tu thiện, sau một thời gian tu trì, cảm thấy bản thân hiện tại có trí huệ, xử sự đối người tiếp vật không còn sai quấy nữa, có trí tuệ, rất rõ ràng, rất minh bạch, đây đều là hiệu quả.

 

[Hoặc xử nhũng đạp nhi xúc niệm giai thông]

 

“Nhũng đạp” là công việc bận rộn. Lúc trước công việc bận rộn, bản thân cảm thấy rất chán nản, rất mệt mỏi, không vực dậy được tinh thần, nơi nơi đều có chướng ngại. Hiện tại, sau khi đã trải qua tu trì như vậy, sau khi đoạn ác sửa lỗi, bây giờ xử lí những việc phức tạp cùng với trước không giống nhau, cảm thấy mọi thứ đều rất thuận lợi; sự việc có phiền phức hơn, công việc có bận rộn hơn, đều cảm thấy có đầu mối, có hướng giải quyết, nhẹ nhàng và dễ dàng hơn, không cảm thấy phức tạp nữa, cũng không cảm thấy mỏi mệt, chán nản nữa.

 

[Hoặc ngộ oán cừu nhi hồi sân tác hỉ]

 

Công phu này thật không dễ dàng. Oan gia đối đầu, nếu là lúc trước nhìn thấy người đó thì sẽ chán ghét, óan hận, tóm lại có thể mắng ông ta vài câu. Hiện tại nhìn thấy những oan gia đó, không chỉ không mắng chửi mà còn rất hoan hỷ, vẫn hành lễ với người đó, dùng thiện tâm, dùng lễ tiết để đối đãi. Đây đều là dự báo tốt lành, đây là từ trên người trên sự mà nói.

 

Phía sau, đây là nói cảnh giới trong mộng của bạn, cùng với trước đây không giống nhau. Trước kia không có tu hành nên thường hay gặp ác mộng, điều này bản thân tôi có kinh nghiệm. Tôi trước khi học Phật gặp ác mộng rất nhiều, thường thường giật mình tỉnh lại trong mộng. Sau khi học Phật, trong mười năm đầu vẫn còn gặp ác mộng, sau mười năm thì ác mộng không còn nữa. Đây đều là dự báo tốt, đều là cảm ứng tốt.

 

[Hoặc mộng thổ hắc vật]

 

Trong mộng thổ ra thứ có màu đen. “Hắc” là đồ dơ, đây là ví dụ.

 

[Hoặc mộng vãng thánh tiên hiền]

 

Tôi là bởi vì thường thường giảng kinh, cho nên mộng thấy không ít lần Phật Bồ Tát giảng kinh, tôi tham dự trong pháp hội giảng kinh đó.

 

[Đề huề tiếp dẫn]

 

Phật Bồ Tát trong mộng thuyết pháp cho bạn, giúp đỡ bạn, dạy dỗ bạn, đây đều là một loại. Phía sau lại cử ra một loại:

 

[Hoặc mộng phi bộ thái hư]

 

Đây là giấc mộng tốt, khi nằm mộng thấy bay lên, bay lên trên hư không, đạp gió cưỡi mây.

 

[Hoặc mộng tràng phan bảo cái]

 

Nằm mộng đến thiên cung, đến cõi Phật, đây đều là sự việc vô cùng tốt đẹp.

 

[Chủng chủng thắng sự]

 

Sự việc thù thắng. Đây đều là dự báo:

 

[Giai quá tiêu tội diệt chi tượng dã]

 

Chỉ có những hiện tượng này. Tội nghiệp của chúng ta, từ trước đến nay không phải hoàn tòan đã tiêu trừ, mà chỉ tiêu trừ một phần, thì những hiện tượng này hiện tiền. Những hiện tượng tốt hiện tiền, ngàn vạn lần nên ghi nhớ.

 

[Nhiên bất đắc chấp thử tự cao, họa nhi bất tiến].

 

Đáng sợ nhất là cái này. Cho nên, dù cho rất nhiều tướng tốt hiện tiền, đối với người chân chánh dụng công, thì thấy mà như không thấy, bất tất phải nói với người khác, không nên khoe khoang thành tích của mình, đây thì hoàn toàn sai rồi.

 

Phải ghi nhớ lời Phật dạy trên kinh, “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, không để trong tâm, bản thân vẫn một lòng sám hối như cũ, vẫn như trước ngày đêm không gián đoạn, công phu của chúng ta mới có thể tiến bộ. Nếu như có những cảnh giới đó hiện tiền, bản thân tự cho là mình giỏi, bản thân tự cho mình cao hơn người khác, tâm cống cao ngã mạn sanh khởi lên, mà không thể đề tỉnh, bạn ngay lập tức bị đọa lạc, đây là sai lầm, đây là sai lầm vô cùng nghiêm trọng.

 

[Hoạch nhi bất tiến], hoạch là ngừng lại, tại đây, hoạch là nói không thể tiến hơn được nữa, điều này thật đáng tiếc. Cho nên, những cảnh giới thù thắng hiện ra trước mắt, cũng coi như không có gì. Về sau dù cảm thấy bản thân trí huệ khai mở, cũng vẫn coi như chưa khai mở, đây là tốt, chúng ta mới có thể có tiến bộ.

 

Liễu Phàm tiên sinh nói một đoạn dài như vậy, phía sau mới cử ra ví dụ, đưa ra các ví dụ về việc sửa lỗi của người xưa, để khuyên dạy con ông.

 

[Tích Cừ Bá Ngọc đương nhị thập tuế thời, dĩ giác tiền nhật chi phi nhi tận cải chi hĩ.]

 

Cừ Bá Ngọc là quan đại phu của nước Vệ thời đại Xuân Thu, ông sửa sai làm mới rất có hiệu quả, trên lịch sử lưu lại tấm gương cho hậu thế. Đây là người mà cũng là thánh hiền nhân, 20 tuổi, khi còn rất trẻ, ông đã biết tầm quan trọng của việc cải lỗi làm mới, đoạn ác tu thiện, nên đã chân thành, nỗ lực làm.

 

[Chí nhị thập nhất tuế, nãi tri tiền chi sở cải vị tận dã]

 

Tuy rằng ông ngày ngày sửa sai, chân thành nỗ lực mà sửa đổi, sửa được một năm, cảm thấy lỗi lầm trong năm này của mình vẫn chưa sửa được triệt để, chưa được rốt ráo.

 

[Cập nhị thập nhị tuế, hồi thị nhị thập nhất tuế, do tại mộng trung].  Năm này kiểm điểm lại năm trước.

 

[Tuế phục nhất tuế, đệ đệ cải chi, hánh niên ngũ thập, nhi do tri tứ thập cửu chi phi.]

 

Đến năm bản thân ông 50 tuổi, quay đầu phản tỉnh tỉ mỉ lại những việc năm ngoái, tức năm ông 49 tuổi ông đã làm, thấy vẫn còn làm sai.

 

[Cổ nhân cải quá chi học như thử]

 

Xứng đáng cho chúng ta noi theo. Lỗi lầm lớn nhất của một người là cái gì? Không biết được lỗi lầm của bản thân, đây là sai lầm lớn nhất. Bởi vì bạn không biết mình sai, bạn sẽ không có tâm muốn sửa sai. Không có ý niệm sửa sai, lỗi lầm chồng chất, do lổi nhỏ tích thành lỗi lớn, lỗi lớn tích thành cực đại, không còn giới hạn nữa, quả báo sau này thật không thể tưởng tượng nổi. Phàm phu nặng nề như thế, làm sao sau khi chết không đọa vào ba ác đạo chứ? Nguyên nhân là tại chỗ này, phía trước Liễu Phàm tiên sinh có nói “minh tu lương bằng đề tỉnh-cần có bạn tốt thường cảnh tỉnh ta”, vấn đề này rất quan trọng.

 

Bạn đi đâu để tìm ra một người bạn tốt như thế chịu thường thường nhắc nhở bạn? Nói lời thật, cha mẹ đều làm không được. Cha mẹ quả thật là ngày ngày đều nhắc nhở bạn, bạn nhất định sẽ oán giận cha mẹ, sẽ thấy cha mẹ ồn ào; sẽ thấy cha mẹ quá phiền phức.

 

Cho nên, phương pháp mà Phật Bồ Tát nghĩ ra quá hay, vi diệu cùng cực! Dùng rất nhiều cách biểu pháp để đề tỉnh bạn. Ý nghĩa của biểu pháp cần phải hiểu. Thí như phía trước chúng ta nói “cúng nước”, phía trước Phật cúng một li nước, bạn vừa nhìn thấy liền hiểu rằng: “Tâm ta phải thanh tịnh giống như li nước này, phải bỉnh đẳng như nước, vĩnh viễn phải bảo trì được tâm thanh tịnh, bình đẳng”. Nếu rời khỏi Phật đường lại quên mất thì sao? Ai sẽ đề tỉnh bạn? Bạn phải biết, chỉ cần thấy nước, bạn liền nghĩ đến. Chúng ta bình thường uống nước, tại đây rót ra một li nước, lập tức liền đề tỉnh bản thân. Khi ra bên ngoài làm khách, người khác chiêu đãi, đơn giản nhất cũng là một li nước trà; nhìn thấy nước, liền phải nghĩ đến: “Tâm chúng ta phải thanh tịnh, phải bình đẳng”. Nếu như bạn nghĩ rằng: “chỉ có li nước ở niệm Phật đường đó mới là biểu pháp, còn cái khác thì không phải”, vậy thì bạn cái gì cũng không thể học được, bạn là quá hồ đồ rồi, bạn phân biệt chấp trước quá mức.

 

Thí như thắp hương, bạn thắp cây hương này là đại biểu cho giới định huệ. Chúng ta ở bất cứ đạo tràng nào nghe thấy mùi hương thì đều nghĩ đến giới định huệ.

 

Hương đề tỉnh cho tỷ căn, bất kể mùi gì đều dùng một từ “hương” để đại biểu; chỉ cần có mùi hương, nghe đến mùi hương, thì đều nghĩ đến giới định huệ. Sau này bạn mới minh bạch, hư không pháp giới nơi nào lại không phải là nơi Phật Bồ Tát học chứ? Nơi nào không phải là đạo tràng cho chúng ta dụng công? tất cả thời, tất cả xứ, vốn dĩ đều là đạo tràng. Đạo tràng không phải chỉ ở trong am đường chùa miếu, xứ xứ đều là đạo tràng!

 

Chúng ta tại trước Phật cúng dường hoa, cúng dường quả. Hoa là đại biểu cho nhân, hoa nở được tốt thì nhân tốt; nhân tốt, quả nhất định tốt. Quả là đại biểu cho quả, hoa đại biểu cho nhân. Thiện nhân thì đắc thiện quả; ác nhân thì gặp ác báo, chúng là biểu thị cho ý nghĩa này.

 

Cúng hoa quả cho Phật, chúng ta phải hiều được ý nghĩa này; bất cứ khi nào nhìn thấy hoa, đều phải hiểu được chúng ta phải tu nhân tốt. Bất luận là lúc nào, cho đến xem thấy người khác mặc y phục, trên y phục có thêu hoa, nhìn thấy bông hoa đó, chúng ta biết phải tu nhân tốt. Bất kể tại nơi nào nhìn thấy hoa quả, trái cây, chúng ta đều hi vọng có quả báo tốt, quả báo tốt thì nhất định phải tu nhân tốt. Đây không phải là giáo học trong nhà Phật hay sao? không phải là giáo học của Như Lai hay sao? Tận hư không biến pháp giới, mắt bạn nhìn thấy, tai bạn nghe thấy, mũi bạn ngửi thấy, lưỡi bạn nếm được, thân thể bạn xúc chạm đến, có pháp nào không phải là phật pháp chứ? Vốn dĩ, nơi nơi đều là phật pháp. Cho nên, nhà phật thường nói “phật pháp vô biên”! Ý nghĩa của câu nói này bạn có hiểu không? Cho nên bạn phải thể hội học tập! Bạn nếu như có thể thể hội được, tất cả thời, tất cả xứ, bạn quyết định không mê. Tại sao? Chúng đều là biểu pháp, đều giúp đề tỉnh bạn, bạn làm sao có thể mê được? Người không thể hội được mới mê, người chấp trước mới mê. Chấp trước nhất định phải là cúng ở phật đường mới là biểu pháp, bên ngoài phật đường thì không phải, vậy thì không hiểu được cái gì gọi là biểu pháp. Học như vậy, học đến hồ đồ, đần độn mất rồi.

 

Khổng lão phu tử nói: “cử nhất ngung, bất dĩ tam ngung phản-dạy một điều mà không tự hiểu ra ba điều khác”, thì Phu tử không dạy nữa, quá ngốc rồi; cũng như nói với chúng ta, chỉ có thể hiểu một cách, mà không hiểu được những trường hợp tương tự. Phật pháp dạy bạn một điều, bạn hiểu được, thì tất cả mọi điều bạn phải đều hiểu được, mọi thứ đều thông đạt, đây mới là phật pháp. Cho nên phật pháp dạy học, đạt đến cảnh giới nghệ thuật cao nhất.

 

Trên công phu mà nói, Cừ Bá Ngọc là một tấm gương tốt nhất, chúng ta phải hướng đến ông ta mà học tập. Điều này quyết định không thể lơ là khinh suất! Liễu Phàm đến cuối đời mà vẫn học, học Cừ Bá Ngọc. Đây là công phu có nền tảng căn bản, mới biết được tính chất quan trọng của dũng mãnh tinh tấn, mới tăng cường đem cảnh giới của bản thân không ngừng nâng cao lên, hiệu quả ngày càng rõ rệt, đời sống thường ngày càng ngày càng khoái lạc, sự nghiệp ngày càng thuận lợi, xác thực là tiêu tai phước đến, một điểm cũng không giả.

 

Chúng ta hôm nay chỉ giảng đến đây thôi.

 


Ngủ rồi be-buti

Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 10)
2013-06-17 10:37:51
(PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 18/04/2001.
 
 
Chư vị đồng tu, xin chào mọi người, mời xem tiếp văn tự phía sau:
 
[Văn báng nhi nộ, tuy xảo tâm lực biện, như xuân tàm tác kiển, tự thủ triền mộ, nộ bất duy vô ích, thả hữu hại dã.]
 
(Nếu nghe những lời phỉ báng mà nổi giận. Dù hết lời biện hộ, chẳng khác nào như con tằm nhả tơ, tự trói buộc mình mà thôi. Sự nóng giận tai hại vô ích.)
 
Sự việc này, chúng ta trong đời sống sinh hoạt thường ngày hay gặp phải, bản thân chúng ta phải đề cao cảnh giác, ngàn vạn lần không được để hoàn cảnh xoay chuyển, như vậy thì tổn thất của chúng ta quá lớn rồi. Một lần nổi sân hận, bất luận thời gian dài hay ngắn, tức là nói chỉ một giây đồng hồ ngắn ngủi như thế, đã làm tổn hại trên sinh lí, trên tâm lí của chúng ta, cần phải mất thời gian ba ngày mới có thể phục hồi lại tâm thanh tịnh. Chư vị nghĩ thử xem, nếu như mỗi ngày đều phát nộ khí, đối với sức khỏe của bạn có tổn hại quá lớn rồi, điều này thật không đáng chút nào.
 
[Văn báng], người khác hủy báng chúng ta, đây là điều không thể tránh miễn được, chúng ta cùng mọi người qua lại với nhau, thực tại không cách gì khiến cho tất cả đại chúng đối với ngôn ngữ, hành vi của chúng ta cảm thấy mãn ý. Không chỉ có phàm phu chúng ta làm không được, mà ngay cả Thích Ca Mâu Ni Phật cũng làm không được. Phật lúc còn tại thế, thường hay có người tìm đến Ngài gây sự, hủy báng, vũ nhục, thậm chí là hãm hại Ngài; như có Đề Bà Đạt Đa, trong nội bộ tăng đoàn có 6 chúng tỳ kheo đến gây phiền não, bên ngoài có lục sư ngoại đạo; đều là Thế Tôn tại thế gian này làm một tấm gương tốt cho chúng ta. Phật đối với những hủy báng, hãm hại này xử lí như thế nào? Phật dùng tâm bất động, tâm chân thành, thanh tịnh, từ bi mà xử lí, đây là điều mà chúng ta phải học tập. Cho nên, nếu như chúng ta nghe thấy người khác hủy báng mình, mà vẫn nổi tâm sân hận, thậm chí là bản thân còn cực lực phản biện lại, đây là bạn tự tìm phiền não. Cho nên, Liễu Phàm tiên sinh tại đây có cử ra một ví dụ: “như xuân tàm tác kiển, tự thủ triền mộ” (giống như con tằm về mùa xuân kéo kén tự ràng buộc mình), thực tại bất tất phải như thế.
 
[Nộ bất duy vô ích, thả hữu hại dã], hai câu nói này là danh ngôn rất chí lí, chúng ta hi vọng bản thân trong một đời sống được hạnh phúc mỹ mãn, bạn phải ghi nhớ “làm sao để trong một đời luôn không nổi giận”, đây là công phu tu dưỡng đã đạt đến cảnh giới. Nổi giận, vừa mới nói là đối với thân tâm của chúng ta đều có tổn hại; cũng có hại cho đối phương, cả hai bên đều có hại, cả hai đều không có lợi ích gì cả. Nếu như chúng ta có thể nhẫn chịu, có thể dùng tâm bất động mà xử sự, bản thân chúng ta có được lợi ích. Có được lợi ích gì? Định huệ tăng trưởng. Phước đức của một người là do định huệ mà có, định huệ tăng trưởng thì phước đức tăng trưởng; định huệ là nhân, phước đức là qủa. Đối với đối phương cũng có lợi ích, chúng ta không có tâm oán hận, không có tâm báo thù, không cùng với anh ta kết oán cừu, cho nên tự tha lưỡng lợi, đây là Bồ Tát đạo, là Bồ Tát học, chúng ta cần phải nỗ lực học tập. Đương nhiên, lúc sơ học nhất định sẽ có khó khăn, nhưng bản thân chúng ta nhất định phải hiểu được đạo lí này, cần phải khắc phục những khó khăn của bản thân, dần dần có thể làm được một cách tự nhiên. Lúc ban đầu phải hết sức nhẫn nại, về sau làm được tự nhiên hơn. Ở đây cử ra hai ví dụ để nói:
 
[Kỳ dư chủng chủng quá ác, giai đương cứ lí tư chi]. (Mỗi lần gặp lỗi lầm ta đều phải bình tĩnh sáng suốt để thấy lý của nó)
 
Chúng ta trong đời sống hằng ngày đối người, đối sự, đối vật, sai lầm vô số, ác hạnh quá nhiều, đều phải thường nghĩ đến đạo lí này, phải thông tỏ nghĩa lí của nó.
 
[Thử lí ký minh, quá tương tự chỉ] (khi lý đã rõ thì việc làm lỗi tự động sẽ dứt).
 
Bạn chỉ cần đem đạo lí này hiểu cho thông đạt, hiểu cho minh bạch, lỗi lầm tự nhiên tiêu trừ. Đây là phương pháp thứ hai của sửa lỗi, phương pháp này so với phương pháp phía trước thù thắng hơn nhiều. Lại xem Liễu Phàm tiên sinh nói đến phương pháp thứ ba:
 
[Hà vị tùng tâm nhi cải? quá hữu thiên đoan, duy tâm sở tạo, ngô tâm bất động, quá an tùng sanh?] (Thế nào là sửa trong tâm? Lỗi lầm thiên hình vạn trạng đều do tâm tạo. Nếu tâm ta không động thì thiện ác đâu mà sanh?)
 
Đây là đại đạo lí, đây là đạo lí cứu cánh. Lỗi lầm của con người quá nhiều, nói không thể hết được! Lỗi lầm bất tất nói là chính bạn tạo tác, chỉ cần khởi tâm động niệm sai trái thì liền hình thành tội nghiệp. Thử hỏi bản thân: chúng ta mỗi ngày từ sáng đến tối chúng ta khởi lên bao nhiêu vọng niệm, bao nhiêu vọng niệm tự tư tự lợi, bao nhiêu vọng niệm tổn người lợi mình? Những lỗi lầm họa hại này đều là “duy tâm sở tạo”, trong tâm bạn khởi tâm động niệm. Cho nên việc tu hành trong phật pháp, then chốt của việc tu hành chính là thiền định. Chư vị ngàn vạn lần không nên hiểu sai ý này, nếu cho rằng tu thiền định trong nhà phật chỉ có thiền tông, vậy thì bạn sai rồi. Chỉ cần là Phật pháp, bất luận là đại thừa hay tiểu thừa, hiển giáo hay mật giáo, tông môn giáo hạ, rất nhiều tông phái, vô lượng vô biên pháp môn, nhà Phật thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, tổng tất cả lại mà nói, đều là tu thiền định. Cho nên, thiền định là tu hành trong nhà Phật, không luận là pháp môn nào đều cùng chung một nguyên tắc, chỉ là phương pháp không giống nhau. Thí như nói, Mật tông dùng phương pháp trì chú; Tịnh tông dùng phương pháp niệm A Mi Đà Phật để tu thiền định, là phương pháp trì danh, cũng dùng phương pháp quán tưởng, dùng phương pháp quán tượng; trong Giáo hạ có phương pháp đọc tụng kinh điển, có phương pháp trì giới. Phương pháp rất nhiều, không một phương pháp nào không phải là tu thiền định, nếu như không phải tu thiền định thì đó không phải là phật pháp. Đây là sự thật chúng ta phải hiểu cho rõ ràng minh bạch. Nếu như chân thật đắc định rồi, cái gì gọi là “định”? Chính là nói, tâm trong tất cả cảnh giới: thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện duyên, ác duyên; thiện duyên, ác duyên là danh từ trong nhà Phật; chính là nói hoàn cảnh đối người, đối sự. Thiện duyên chính là cùng với rất nhiều người thiện ở chung một chỗ; ác duyên là cùng với rất nhiều người tạo ác ở chung một chỗ. Gọi là hòan cảnh nhân sự. Vô luận là trong bất cứ hoàn cảnh nào, chỉ cần bản thân không động tâm, không động niệm, đó đều gọi là thiền định.
 
Cho nên, “Ngô tâm bất động, quá an tùng sanh”, lỗi lẫm từ chỗ nào mà đến? khởi tâm động niệm chính là lỗi lầm, chỉ cần chúng ta trong tất cả các cảnh giới, đối người, đối sự, đối vật để luyện tâm, luyện tâm bất động, luyện được không khởi tâm động niệm.
 
Trong tất cả mọi phương pháp, thực tại mà nói, phương pháp niệm phật là cách tốt nhất, tiện lợi nhất, dễ dàng nhất. Tại sao? Ý niệm vừa động, lập tức “A Mi Đà Phật”, dùng câu Phật hiệu A Mi Đà Phật để đem vọng niệm đè phục xuống, dụng ý của niệm Phật là ở tại chỗ này. Nếu như một mặt niệm Phật, một mặt khởi vọng tưởng, vậy thì bạn hoàn toàn sai rồi. Niệm Phật đúng cách là dùng câu Phật hiệu để chế phục vọng niệm. Cũng chính là nói, dùng một niệm này thay cho tất cả vọng niệm. Ý niệm không thể không khởi, nếu như bạn không khởi vọng niệm, vậy thì bạn là Thánh nhân, bạn không phải phàm nhân. Người phàm phu đối mặt với hoàn cảnh bên ngoài, nào có đạo lí không khởi vọng niệm chứ? Cho nên cổ đại đức thường nói: “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Bạn phải giác ngộ nhanh; giác ngộ nhanh chính là liền đem vọng niệm chặn đứng lại. Phương pháp của Tịnh độ tông, chính là dùng một câu Phật hiệu để đem nó chuyển đổi lại, niệm vừa mới khởi lên, bất kể niệm đó là thiện hay ác, ngay lập tức giữ lấy câu Phật hiệu để thay thế chúng, để trong tâm chúng ta chỉ có một niệm, không cho niệm thứ hai khởi lên, đây gọi là niệm Phật; đây gọi là công phu. Làm được lâu dài như vậy, ý niệm tự nhiên không khởi lên nữa, công phu của bạn được đắc lực; nếu như vẫn cứ khởi niệm, công phu của bạn không đắc lực. Giống như ngày ngày đọc sách, rất dụng công đọc sách, nhưng đi thi đều không đậu, bạn không có được tành tích. Cho nên người học Phật, người tu hành; tu hành chính là tu chính lại những tư tưởng sai lầm của chúng ta; tu chính lại những hành vi sai lầm của chúng ta. Chúng ta hôm nay có được phương pháp trì danh niệm phật, dùng phương pháp này trong tất cả thời, tất cả xứ bảo trì thanh tịnh tâm của chúng ta; câu này ý nói, giữ cho chúng ta không tạo ác nghiệp. Phía sau cử cho chúng ta ví dụ:
 
[Học giả]. Học giả là chỉ người học Phật, là học trò của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật tuy rằng bây giờ không còn trụ thế nữa, nhưng kinh điển của Phật còn tại thế gian, chúng ta y cứ vào phương pháp, lí luận trên kinh điển mà tu học, đây đều là học trò của Thích Ca Mâu Ni Phật.
 
[Ư háo sắc, háo danh, háo hóa]
 
“Hóa” chính là hưởng thụ vật chất
 
[Hảo nộ, chủng chủng chư quá, bất tất trục loại tầm cầu] (như thích nổi nóng, mỗi mỗi việc sai, bất tất phải sửa từng điều một).
 
Những sự việc này, phàm phu chúng ta khó mà cưỡng lại được. Trước những cảnh này, tâm tham của chúng ta khởi lên: tham sắc, tham danh, tham hưởng thụ; tâm sân khuể của chúng ta phát ra nộ khí, tham sân si hiện tiền, đây chính là lỗi lầm, đây gọi là tạo nghiệp.
 
Lúc này thì phải làm sao? chỉ cần có ý niệm này liền lập tức chuyển thành A Mi Đà Phật; đem ý niệm háo sắc diệt trừ, đem ý niệm ham danh buông bỏ, đem ý niệm tham đồ hưởng thụ đoạn sạch, đem ý niệm sân giận cũng dập tắt; công đức của niệm Phật là ở tại chỗ này. Dùng phương pháp khác cũng có thể, nhưng phương pháp niệm Phật là tiện lợi nhất, đơn giản nhất, cũng có hiệu quả nhất. Pháp môn tông phái trong nhà Phật có rất nhiều, tôi cũng đã từng chọn lựa qua, nhưng cuối cùng, tôi vẫn là chọn pháp môn này. Pháp môn này giản đơn dễ dàng, cũng vô cùng có hiệu quả; chính là đem vọng tưởng, ý niệm thay thế bằng việc trì giữ một câu Phật hiệu, đem chúng chuyển đổi lại dần dần, vọng niệm cũng từ từ ít đi. Khi những cảnh giới này hiện tiền, tâm ta đã đạt đến như như bất động. Không phải nói là mắt nhìn không thấy, tai không nghe, không tiếp xúc; không phải như vậy. Mắt ta cũng vẫn nhìn thấy, tai cũng nghe thấy, tiếp xúc như vậy, nhưng tiếp xúc mà không động tâm. Tại thế gian, lục căn tiếp xúc với cảnh giới lục trần, cũng giống như xem điện ảnh, xem ti vi vậy, cảnh giới này, Phật tại trên kinh Bát Nhã nói được rất hay: “như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”. Đây chính là Phật từ trên lí mà nói cho chúng ta, từ trên lí mà quan sát, từ trên tâm là sửa, vô cùng có hiệu quả. “Chủng chủng chư ác, bất tất trục loại tầm cầu.” Bất tất phải từng việc từng việc mà nghĩ, từng điều từng điều mà sửa, đây thì quá phiền phức, quá mất công rồi!
 
[Đản đương nhất tâm vi thiện, chính niệm hiện tiền, tà niệm tự nhiên ô nhiễm bất thượng]. (chỉ cần một lòng hướng thiện, chánh niệm hiện tiền, thì tà niệm liền không thể khởi tác dụng được)
 
Câu nói này nói được rất hay! Chỉ cần bản thân chúng ta trì giữ, chấp trì được “nhất tâm vi thiện”- một lòng làm thiện. Cái gì gọi là “vi thiện”? Niệm niệm đều vì lợi ích cho chúng sanh, lợi ích cho xã hội, lợi ích cho quốc gia, một lòng làm thiện. Tuyệt đối không nghĩ đến lợi ích của bản thân, chư vị phải nên biết, nếu như xen tạp một ý niệm lợi ích bản thân, thì việc thiện của bạn không thuần, trong thiện có xen tạp, xen tạp điều bất thiện, đạo lí này phải hiểu. Tâm mình là thuần thiện, hành vi của bản thân cũng đương nhiên là thuần thiện, phải làm được đến thuần thiện, quyết định không có tơ hào ý niệm tự tư tự lợi, chúng ta mới có khả năng thành tựu. “Chánh niệm hiền tiền”, chánh niệm là đối với tà niệm mà nói; tà niệm là tư tưởng sai quấy, là kiến giải không đúng, là hành vi sai trái. Lỗi lầm này đối với xã hội có tổn hại, đối với bản thân vô cùng bất lợi. Bạn làm hại xã hội, tổn hại người khác, tương lai bạn nhận lấy quả báo ở tam đồ, trước mắt tuy là có được một vài lợi ích nhỏ, về sau phải thọ nhận quả báo. Nếu như làm một sự so sánh, bạn liền hiểu được: “được không bằng mất”! Cái bạn được quá ít ỏi, còn cái giá bạn phải trả quá lớn quá lớn, thật không đáng! Cho nên phải luôn luôn bảo trì chánh niệm, ý niệm thuần chính chính là phía trước đã nói: “ngô tâm bất động”, cảnh giới bên ngoài liễu liễu phân minh, đây chính là chánh niệm.
 
Tu chánh niệm, tôi cử ra một ví dụ để nói: Hiện tại trong mỗi gia đình đều có ti vi, từ trẻ nhỏ đến người lớn, đại khái trong gia đình, thời gian xem ti vi là nhiều nhất. Xem ti vi có phải là tu hành hay không? Có thể. Tôi trước đây đã dạy không ít người, đem bốn câu trên “kinh Kim Cang” viết ra, dán ở bên cạnh màn hình ti vi, bốn câu đó là: “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”. Chúng ta hãy dùng bài thơ này để xem ti vi, đó thì là tu hành. Màn hình ti vi, bạn thấy rõ ràng; âm thanh của ti vi bạn cũng nghe được rất rõ ràng, bạn từ chỗ này học được cái gì? Học được như như bất động. Mà không phải bị chúng chuyển. Màn ảnh ti vi diễn ra cảnh hoan hỷ, vui vẻ; nó cười, bạn liền cười theo nó; nó khóc thì bạn liền khóc theo nó, vậy thì bạn xong rồi. Bản thân bạn không định lại được, bạn bị chúng chuyển. Người tu hành phải như thế nào? Ta không bị nó chuyển, mà ta chuyển nó, vậy thì bạn thành công rồi. Trên kinh Lăng Nghiêm có nói: “Nhược năng chuyển cảnh, tức đồng Như Lai”. Cảnh giới hiện tiền, bạn không bị chúng chuyển, bạn lại có khả năng chuyển chúng. Chuyển được chúng, bạn liền có thể giáo đạo chúng, bạn liền có thể cải biến chúng, giúp chúng đổi tà thành chánh. Nếu bản thân bạn không có năng lực này, không có định lực này, không có trí huệ này, bạn không thể giữ cho bản thân không động, bạn làm sao có thể chuyển người khác chứ? Bạn hiểu được xem ti vi là tu hành, chính là tu giới định huệ. Sau đó bạn mới hiểu được, chúng ta mỗi ngày từ trong mỗi việc nhỏ nhặt nhất của đời sống, không một nơi nào không phải là nơi Bồ tát học tập, không một pháp nào không trở thành Vô thượng đạo; vấn đề là bạn có thể làm được hay không mà thôi.
 
Đại đức Thiền Tông, chúng ta từ trong kí lục trước đây thường thường xem thấy, họ trắc nghiệm học trò, thường hay hỏi đệ tử rằng: Anh “có hiểu không!” Ý nghĩa của hai từ này thâm rộng vô tận, nếu như bạn có thể chân thật thể hội được, thì mỗi một việc nhỏ nhặt đều là Phật pháp: “đầu đầu thị đạo, tả hữu phùng nguyên” đây mới là chân chính thành tựu; đây cũng chính là trên kinh Hoa Nghiêm nói: “lí sự vô ngại, sự sự vô ngại”. Thuật ngữ trong tông môn và giáo hạ tuy không đồng nhau, nhưng ý nghĩa hòan tòan giống nhau. Các bạn hãy suy nghĩ xem: Tông môn nói: “đầu đầu thị đạo, tả hữu phùng nguyên”, còn trong giáo hạ nói: “lí sự vô ngại, sự sự vô ngại”, không phải là cùng một ý nghĩa đó hay sao? Pháp môn tuy không đồng, phương pháp không giống nhau, nhưng đều quy về một chỗ. Chỗ này chúng ta đã minh bạch rồi, thì chúng ta đối với tất cả các tông phái, tất cả pháp môn, đều dùng tâm cung kính mà đối đãi, không có cao thấp. Tuyệt đối không thể nói, pháp môn niệm Phật của tôi rất cao minh, phương pháp đó của anh không bằng tôi, đây là sai rồi! Tâm của bạn không thanh tịnh, tâm của bạn không bình đẳng, bạn đã mê mất rồi, bạn không giác ngộ. Người chân chính giác ngộ đó là người có tâm bình đẳng, “pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”, đây là đúng rồi, đây quyết định là chính xác. Cho nên “nhất tâm vi thiện, chánh niệm hiện tiền”, điều này quan trọng!
 
Giả như, xã hội hiện tại của chúng ta, quốc gia ngày nay, mỗi một người đều có thể làm đến “nhất tâm vi thiện, chánh niệm hiện tiền”, thì trong xã hội này làm sao có thể có tà đạo chứ? Làm sao có thể có tà tri tà kiến? Tự nhiên chúng bị tiêu trừ không còn dấu vết.
 Cổ đức thường nó: “phá tà hiển chánh”, chúng ta ngày nay đem câu nói này phản tỉnh trở lại, hiển chánh, tà sẽ không thể tồn tại. Trong xã hội tại sao lại có nhiều tà tri tà kiến như vậy? Bởi vì không có sự giáo dục chánh tri chánh kiến, cho nên một khi tà tri tà kiến xuất hiện, mọi người hiếu kì, liền hướng đến chúng mà học tập, thật là mù quáng! Ngạn ngữ có câu: “không sợ không biết hàng, chỉ sợ hàng không tốt”. Nếu như chánh pháp có thể đề xướng, nhân dân có thể biện biệt, có thể so sánh được, đem cả hai bày ra trước mắt để so sánh, họ có thể nhận thức được, họ tự nhiên có thể biết cách chọn lựa. Ngày nay, tà giáo có mặt trên toàn thế giới, lan tràn khắp xã hội. Nguyên nhân vì sao? Vì trong thời đại này không có người đề xướng chánh pháp. Nho gia, “đả đảo Khổng gia điếm- ý nói lật đổ học thuyết của Khổng tử”, Nho gia là chánh pháp, là dạy người: “hiếu, đễ, trung, tín”; “lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, dạy người “ngũ luân bát đức”, chánh pháp, đã không cần đến nữa. Phật pháp là chánh pháp, Phật pháp dạy người: “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”. Hiện tại mọi người cho rằng phật pháp là mê tín, phá trừ mê tín, đả đảo mê tín, từ đây sản sinh ra rất nhiều hiểu lầm. Phật không mê tín, khẩu hiệu trong nhà Phật là “phá mê khai ngộ”, đem phá mê khai ngộ để triệt phá đi mê tín, vậy thế nào gọi là không mê tín? Đó nhất định là tà pháp thì không mê tín, tà giáo thì không mê tín, đương nhiên trong xã hội sẽ kéo nhau đi học tà pháp. Ở đây, chúng ta phải suy nghĩ kĩ càng. Làm sao để có thể “hiển chánh phá tà”, hiện nay trên tòan thế giới, rất nhiều quốc gia khu vực đều áp dụng được rất tốt. Lại xem phía sau, kinh văn phía sau từ trên tỉ dụ mà nói:
 [Như thái dương đương không, võng lượng tiềm tiêu]. (Như mặt trời mọc lên thì quỷ quái phải tìm đường lẩn trốn.)
 Hai câu này là tỉ dụ, đem ‘Thái dương” để so sánh với chánh pháp; đem “võng lượng” để so với tà pháp, võng lượng là yêu quái. Dưới ánh nắng mặt trời chuyển hóa sang ban ngày, yêu quái không thể tồn tại được, đạo lí này cũng giống như vậy. Phía sau Liễu Phàm tiên sinh đưa ra môt kết luận:
 [Thử tinh nhất chi chân truyền dã].  
 “Tinh” là tinh thuần; “nhất” là duy nhất, độc nhất. Những điều mà thánh hiền truyền lại từ xưa đến nay, đây gọi là chân truyền.
 [Quá do tâm tạo, diệc do tâm cải]. (Tội do tâm tạo thì phải từ trên tâm mà sửa.)
 Đây là từ trên căn bản mà sửa đổi, như vậy việc sửa đổi mới có thể đạt đến cứu cánh, mới có thể sửa đổi triệt để.
 [Như trảm độc thụ, chân đoạn kỳ căn, hề tất chi chi nhi phạt, diệp diệp nhi trích tai?] (Như muốn trừ một cây độc, chỉ cần đốn ngay gốc, đâu cần bẻ từng lá và chặt từng nhánh?)
 Ở đây lại dùng một tỉ dụ để nói. Thí như chúng ta chặt cây, cây này có bệnh độc, không phải là cây tốt, chúng ta phải đem chúng đốn trừ tận gốc. Từ trên gốc rễ của nó mà đoạn trừ, không cần phải chặt cành nhánh, lá cây; chọn cành hái lá rất phiền phức! Chặt từ gốc rễ thì tốt rồi, cành là tự nhiên bị khô héo. Đây là nói sửa lỗi, phía trước giảng từ trên lí mà sửa, cũng giống như chặt cây, phải từ thân cây mà hạ thủ. Từ trên sự mà sửa, cũng giống như từ trên lá cây mà hạ thủ, điều này thì rất phiền phức, rất không dễ dàng. Từ trên tâm mà sửa, cũng chính là từ trên gốc rễ mà hạ thủ, điều này dễ dàng và chân chánh làm được đến cứu cánh. Lại xem tiếp đoạn văn tiếp theo, tổng kết:  
 [Đại để tối thượng giả trị tâm, đương hạ thanh tịnh, tài động tức giác, giác chi tức vô].
 Chúng ta học Phật dụng công, cũng phải nắm được cương lĩnh này, nắm được cương lĩnh phải từ trên căn bản mà khởi tu thì không khó. Chúng ta ngày nay nói đến Phật pháp, kinh điển nhà Phật nhiều như vậy, cổ nhân hình dung rằng “hạo như yên hải-nhiều như nước biển.” Kinh sách được lưu truyền từ Ấn Độ đến Trung Quốc, sớm nhất trên lịch sử Trung Quốc có ghi chép lại, vào thập niên Hán Minh Đế Vĩnh Bình, năm 67 sau CN, đến ngày nay là năm 2001, đây là trên lịch sử có ghi chép lại. Nhưng trên thực tế, Phật pháp do tư nhân lưu truyền đến Trung Quốc, thời gian này vẫn còn rất sớm, có thể là sớm hơn đến hai, ba trăm năm. Chính thức do quốc gia phái sứ giả đi cầu thỉnh về, đi nghênh đón về chính là vào thập niên Hán Minh Đế Vĩnh Bình, tại Trung Quốc đã có trên hai ngàn năm lịch sử. Kinh điển không ngừng lưu truyền đến Trung Quốc, đại khái trễ nhất là vào thời Nam Tống. Trung Quốc thời Nam Tống đã hoàn thành phiên dịch, in ấn “Đại Tạng Kinh”, tổng cộng có hơn bảy ngàn quyển, hiện tại còn thêm vào các trước tác của tổ sư đại đức Trung Quốc trước đây, đều được gom lại đưa vào trong một bộ tùng thư này, hiện tại “Đại tạng kinh” tiếng Trung tổng cộng có đến trên ba vạn quyển. Nếu như chúng ta muốn học Phật, điển tịch nhiều như vậy, đều muốn xem qua, đều muốn nghiên cứu, đều muốn học tập hết, đây chính là tìm cành ngắt lá vậy, phiền phức biết bao! Vậy phải đến năm nào, chúng ta mới có thể nhập môn? Cho nên, người biết học phải từ trên căn bản mà học, đây mới là điều quan trọng, mấu chốt.
 Tôi học Phật 50 năm, tôi giảng kinh cũng được 42 năm rồi. Tôi tổng kết tinh túy của Phật pháp trong một đời qua 20 chữ, chúng tôi thường giữ tâm này, chính là nói ngay trong đời sống hằng ngày đối người, đối sự, đối vật, chúng tôi dùng cái tâm gì? Phật tại trên kinh thường dạy cho chúng ta, dùng tâm chân thành, chân quyết định không có giả, thành thì không hư ngụy; dùng thanh tịnh tâm, thanh tịnh quyết định không có ô nhiễm; dùng bình đẳng tâm, bình đẳng thì không có cao thấp; dùng tâm chánh giác, quyết định không có mê hoặc; dùng từ bi tâm, ái hộ tất cả chúng sanh, trong từ bi tâm không có tự tư tự lợi. Chúng ta phải dùng năm loại tâm này, năm thứ tâm này chính là trên đại thừa Phật pháp thường nói “đại bồ đề tâm”. Nếu như dùng đại bồ đề tâm mà nói, rất nhiều người không dễ hiểu, chiếu theo chú giải trong kinh điển mà nói cũng rất khó hiểu, cách nói của tôi như thế này, mọi người sẽ rất dễ lí giải: chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi. Phật tâm! Phật là dùng cái tâm này để đối người, đối sự, đối vật. Hành vi của Phật là gì? Hành vi, tôi dùng 10 chữ để nói: khán phá, phóng hạ, tự tại, tùy duyên, niệm Phật. Niệm Phật này, Phật có nghĩa là giác, chính là niệm niệm đều là giác mà không mê, niệm niệm chánh mà không tà, niệm niệm là tịnh mà không nhiễm, đó gọi là niệm Phật; niệm tự tánh Phật. Nắm cái cương lĩnh này, tu hành liền dễ dàng. Quả nhiên có thể khế nhập được cảnh giới, thì tất cả kinh điển nhà Phật đều bày ra trước mắt bạn, bạn không còn cảm thấy khó khăn nữa, bạn đều có thể thông đạt, học tập. Cho nên, thế xuất thế gian pháp, đều phải biết căn bản, đều phải nắm được tinh yếu của nó, cương lĩnh của nó.
 Như vậy chúng ta liền hiểu được, đại khái tóm lại quan trọng nhất là phải từ trên căn bản mà tu, “trị tâm”, hiệu quả là đạt được thanh tịnh. Nào có việc phiền phức nhiều như thế chứ? “Tài động tức giác, giác chi tức vô”, đây là nói tâm vừa mới động, lập tức liền quan sát đến được; một khi giác rồi thì ý niệm này liền ngừng lại. Đây là cổ đại đức chỗ nói: “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Bạn phải giác ngộ cho thật nhanh, không để cho ác niệm tương tục; ác niệm vừa mới khởi lên, niệm thứ hai liền đề khởi lại chánh niệm, đây là phương pháp tốt nhất.
 [Cẩu vị năng nhiên]. Nếu như bạn làm không được, điều tối thượng đó không làm đến được, vậy thì bất đắc dĩ bạn phải dùng đến cách trung gian, bất đắc dĩ phải nhờ đến điều thứ kế; điều thứ kế đó là gì? Minh lí.
 
[Tu minh lí dĩ khiển chi]
 Đạo lí phải rõ ràng, đạo lí phải minh bạch, tự nhiên đem ác niệm, tà niệm li khai đi.
 [Hựu vị năng nhiên]
 Điều này cũng làm không đến được, làm không được, vậy thì phải làm sao?
 [Tu tùy sự dĩ cấm chi].
 Đây chính là chỉ có thể từ trên cành lá mà hạ thủ công phu. Đây là tầng thứ ba, thực tại mà nói chính là ba bậc căn tánh không đồng trong nhà Phật thường nói. Người thượng căn, từ trên căn bản mà hạ thủ, từ chỗ khởi tâm động niệm, đoạn tất cả ác; người căn tánh bậc trung, dùng “minh lí dĩ khiển chi-hiểu rõ lí để triêu trừ vọng niệm”; người hạ căn chỉ có “tùy sự dĩ cấm chi-dùng sự để ngăn cản”. Cho nên, Phật vì những người hạ căn này mà chế định ra rất nhiều giới điều. Những giới điều này, chư vị đồng tu nhất định phải biết, là khi Phật Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế, quy phạm của đời sống xã hội Ấn Độ ba ngàn năm trước. Trên mặt thời gian, đã cách chúng ta ba ngàn năm; trên mặt hoàn cảnh địa lí, chúng ta bên này là Trung Quốc, bên kia là Ấn Độ; bạn cần phải minh bạch cái đạo lí này, sau đó bạn nghiên cứu giới luật mới chân chánh có được tâm đắc. Có cần phải căn cứ vào từng điều từng điều để làm không? Không cần thiết. Tại sao? Bởi vì rất nhiều phương thức sinh hoạt cùng với hiện tại chúng ta hoàn toàn không giống nhau. Điều này phải biết, phải hiểu được tinh thần sở tại của giới luật, phải học tập tinh thần của nó, trên mặt sự tướng phải dùng phương thức sinh hoạt hiện đại, không thể học phương thức sinh hoạt của cổ Ấn Độ ba ngàn năm trước, đó thì sai rồi! Nếu Thích Ca Mâu Ni Phật xem thấy cũng phải cười trong ảo nảo, sao mà bạn có thể ngốc như thế chứ. Cho nên phật pháp tức là giới điều, mỗi điều đều là linh hoạt sống động, chứ không phải chết cứng. Tuy nhiên các giới căn bản thì siêu vượt thời-không, siêu vượt thời gian, siêu vượt không gian, tất cả thời, tất cả xứ, đều là chuẩn tắc, cái này thì không thể cải biến. Căn bản giới này là cái gì? Chính là ngũ giới. Chỉ có 5 điều: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. 5 điều này, xác thực là bất kể thời đại nào, bất kể là khu vực nào, đều hành được thông. Năm điều này siêu vượt thời không, nhất định phải tuân thủ nó. Giới điều của Phật có rất nhiều rất nhiều, nhất định phải xem xét nó có thích hợp với thời đại hiện tại của chúng ta hay không. Trong thời đại này của hiện tại chúng ta, phải nên tu sửa như thế nào; không đi ngược lại với tinh thần của chúng, nhưng trên sự tướng nhất định phải tu chính cho phù hợp.
 Lần đầu tiên tại Trung Quốc, công tác tu đính quy mô lớn nhất là vào đời Đường. Phật pháp dưới thời nhà Đường, có người nói rằng: Phật pháp nhà Đường đã khởi lên một cuộc vận động cách mạng, cũng có thể cách nói này, đó chính là chế độ tùng lâm của Trung Quốc đã được hưng khởi: “Mã tổ kiến tùng lâm, Bách Trượng lập thanh quy”, hai vị đại đức này đã đề xướng cộng tu, dựa vào chúng, tu với chúng. Hai người họ là sư huynh đệ, là tổ sư đời thứ tám của thiền tông, hai người họ đều là đời thứ tám, chiếu theo cách nói thông thường, là đồ tôn của Huệ Năng đại sư. Kiến tùng lâm, chính là đem giáo học, việc tu hành của Phật pháp chế độ hóa, chế độ hóa chính thức. Tùng lâm giống như trường đại học hiện đại, được tổ chức rất nghiêm mật. Chủ tịch của tùng lâm là phương trượng, cũng giống như hiệu trưởng của trường học hiện nay; hòa thượng thủ tọa của tòng lâm, tương đương với giáo vụ trưởng của trường học; hòa thượng duy na của tùng lâm tương đương với huấn đạo trưởng; giám viện của tùng lâm tương đương với tổng vụ trưởng. Tên gọi tuy không giống nhau, nhưng cùng với lãnh đạo chấp sự của trường học hiện tại, cách phân chia công việc của họ hoàn toàn tương đồng. Cho nên giáo vụ, huấn đạo, tổng vụ trong tùng lâm, đó chính là trường học. Trường học chính quy được lập ra để dạy học, để giúp đỡ cộng đồng mọi người làm được đến công phu cải ác tu thiện, đây gọi là tu hành. Tu hành, tóm lại mà nói cũng chính là sửa lỗi tu thiện mà thôi. Hiện tại có rất nhiều người hiểu lầm, cho rằng tu hành là phải an chay trường, nhất định mỗi ngày đều phải gõ mõ tụng kinh, đây là hoàn toàn nghĩ sai rồi, đây chỉ là hình thức. Hình thức có thể biến đổi, tinh thần, nguyên lí, nguyên tắc thì không thể thay đổi.
 Hiện tại có rất nhiều đồng tu đến gặp tôi, họ xây chùa miếu ở khắp các nơi. Tôi không tán thành. Tại sao? Chùa miếu là thời đại hai ngàn năm về trước, hoặc là trước thời Mãn Thanh vẫn có thể nói đến. Nhưng hiện tại là xã hội dân chủ tự do mở cửa, không thể bảo mọi người quay lại thời đại chuyên chế, cái sự việc này không có khả năng! Hiện tại đạo tràng nên kiến lập như thế nào? Phải xây dựng theo phương thức trường học. Phật giáo bổn nguyên vốn là giáo dục, vẫn phải quay lại việc dạy học, cho nên xây dựng trường học chứ không phải chùa miếu, như vậy mới tốt. Nếu như nói hoằng dương Phật pháp, hoằng dương phật pháp thì đạo tràng là tốt nhất, đạo tràng lí tưởng nhất đó là truyền hình, vệ tinh hiện đại, tòan thế giới đều có thể nghe được, bạn nói hiệu quả này lớn biết bao nhiêu! Dùng phương pháp này để hoằng pháp lợi sanh, đem giáo học của phật pháp truyền đến mỗi gia đình. Đem những lí luận và phương pháp học Phật, lợi dụng khoa học kĩ thuật, truyền đến mỗi một người muốn học Phật. Đây thì chính xác, không cần phải xây chùa miếu. Thời đại lập chùa miếu đã qua lâu rồi.
 Hôm nay chúng ta giảng đến đây. A MI ĐÀ PHẬT

 


Ngủ rồi be-buti

Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 9)
2013-06-08 09:45:25
(PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 18/04/2001.
 Chư vị đồng tu, xin chào mọi người!
 Mời tiếp tục xem tiếp đoạn phía sau.
 [Hựu tư huyết khí chi chúc, giai hàm linh tri, kí hữu linh tri, giai ngã nhất thể, túng bất năng cung tu chi đức, sử chi tôn ngã thân ngã, khởi khả nhật tường vận mệnh, sử chi cừu ngã hám ngã ư vô cùng dã, nhất tư cập thử, tương hữu đối thực thương tâm, bất năng hạ yết giả hĩ.]
 (Tạm dịch: Hơn nữa, những vật có huyết khí đều có linh tri, mà đã có linh tri thì chúng cũng đồng một thể như chúng ta; cũng chưa đủ đức thực cao đội khiến chúng thân cận và tôn trọng ta, há lại hàng ngày sát hại sinh mạng để chúng mãi oán hận chúng ta. Nghĩ như vậy thì đối với miếng ăn thực cũng đau lòng mà khó nuốt trôi.)
 Đoạn này nói được vô cùng hay! Chúng ta phải thường nghĩ đến, tất cả động vật đều có máu huyết; “huyết khí chi chúc”, đều là động vật. Động vật đều có linh tri, đều có tri giác. “Ký hữu linh tri, giai ngã nhất thể”. Chúng ta biết vật chất là có giới hạn, linh tri không có giới hạn, không có giới hạn đây mới biết là một thể. Cho nên Phật nói: Hư không pháp giới là hiện tướng của tâm chúng ta, cùng với tâm chúng ta là một thể, cũng chính là dáng vẻ do tâm hiển hiện ra, chính là hư không pháp giới. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng ta, biến hiện ra chính là chúng sanh, quốc độ, bao gồm hiện tượng tự nhiên mà hiện tại chúng ta nói đến. Phàm phu tâm ý thô trệ, rất khó quán sát thấy hư không pháp giới cùng bản thân là một thể. Chính bởi chúng vốn dĩ là một thể, cho nên nhất thiết chúng sanh đều có cảm ứng qua lại. Mức độ linh cảm tương xứng với tâm thanh tịnh, tâm ô nhiễm của chúng sanh; tâm càng thanh tịnh thì mức độ linh ứng càng mạnh. Cho nên trong cảnh giới của chư Phật Bồ Tát, tòan hư không pháp giới sở hữu nhất thiết chúng sanh cùng với họ đều có cảm ứng đạo giao; cũng giống như nói cơ quan tiếp thu của họ vô cùng linh mẫn, cho dù là dao động vô cùng yếu, họ đều có thể tiếp nhận được. Còn năng lực tiếp thu của phàm phu chúng ta kém, thực ra năng lực tiếp thu của chúng ta với họ là tương đồng, vậy tại sao hiện tại lại có sự cách xa như vậy? Năng lực tiếp thu của họ được bảo trì vô cùng hòan chỉnh, cùng với lúc ban đầu như nhau. Bộ máy tiếp thu của chúng ta không biết bảo trì, ô nhiễm quá nhiều trần cấu, dơ bẩn lôn xộn đến không thể chịu nổi, cho nên năng lực tiếp thu kém đi. Chỉ có dao động mạnh chúng ta mới có thể quan sát được, còn những dao động vi tế thì chúng ta hoàn toàn không thể tiếp thu được, cũng giống như tỉ dụ này.
 
Nếu như bản thân chúng ta có thể chân chính có công phu tu dưỡng, cái gọi là công phu tu dưỡng, chính là đem những cấu uế trong tâm chúng ta tẩy sạch thanh trừ đi, hồi phục đến bổn năng của chúng ta, vậy là năng lực tiếp thu của chúng ta cùng với chư Phật Như Lai không hai không khác. Hư không pháp giới, quá khứ, vị lai, hiện tượng dao động vô cùng vi tế, chúng ta đều thấy rõ ràng minh bạch.
 Công cụ tiếp thu này không cần đến cơ giới, không cần dùng đến nhục thể. Chư vị phải hiểu rõ, năng lực tiếp thu không phải là nhục thể; mà là dùng linh tri, Linh tri có có tướng trạng hay không? Người bình thường chúng ta nói rằng linh tri không có tướng, trên kinh Phật cũng nói như thế. Tuy nhiên, cách nói đó là đối với phàm phu chúng ta mà nói, phàm phu có thể lí giải được chính là nhờ vào trình độ của anh ta, thường thức của anh ta mà nói, không phải là điều mà bản thân Phật Bồ tát nói. Phật Bồ tát bản thân các ngài thường nói: linh tri có tướng. Đây là sắc, sắc chính là sắc tướng, sắc tướng này gọi là vô biểu sắc, câu này ý nói, chúng ta có mắt tai mũi lưỡi, cho đến ý, đều không có cách gì cảm nhận được, cho nên ở đây nói vô sắc. Kỳ thực, vô sắc vẫn là có sắc, chúng ta nhìn không thấy cái sắc này, nhưng Phật Bồ tát nhìn thấy được. Câu nói này rất khó hiểu, cử một tỉ dụ mà nói, thí như nói mọi người đều nằm mộng, tôi hỏi bạn: “trong mộng có sắc tướng hay không?” Chúng ta hãy tỉ mỉ mà suy xét, không thể nói là không có sắc tướng. Tại sao? Sau khi tôi nằm  mộng, cảnh giới trong mộng hồi ức lại thật rõ ràng, tôi mộng thấy nhân vật nào, mộng thấy anh ta đang làm cái sự viêc gì, mộng thấy trạng huống hòan cảnh sinh hoạt của những nơi đó, đều là giống như thật, làm sao có thể  nói là không có sắc tướng chứ? Cho rằng có sắc tướng, vậy khi bạn nằm mộng, người nằm bên cạnh bạn tại sao lại không thấy? Cho nên chúng ta liền có thể thể hội được Phật nói đến vô sắc giới, vô sắc giới giống như cảnh giới trong mộng, cảnh giới trong định, bản thân thì thấy rõ ràng, minh bạch; nhưng người khác thì không thấy được. Người khác cùng ta ở tại một chỗ, bất luận là anh ta còn tỉnh hay cũng ngủ như ta, anh ta cũng đều không có cách nào nhập vào trong cảnh giới mộng của chúng ta, anh ta không thể nhìn thấy được cảnh giới trong mộng của ta, đạo lí cũng giống như vậy. Nếu như là người có công phu, cũng chính là nói người có tâm địa thanh tịnh, thanh tịnh đến một trình độ nhất định, khi bạn nằm mộng anh ta nằm bên cạnh có thể xem thấy. Chúng ta tại trong truyện kí, tiểu thuyết có thể xem thấy, những câu nói này là thật, không phải là giả.
 Mọi người đọc sách, cũng có thể đã đọc qua tiểu thuyết truyền kì “Hoàng Lương Mộng”. Lão đạo này là một người tu hành, có định lực. Ông tại nơi đó nhắm mắt tĩnh tọa, một người tú tài nằm ngủ bên cạnh, anh ta nằm mộng. Sau khi tỉnh mộng, lão đạo nói với anh ta rằng: “Anh trong mộng làm cái sự việc gì vậy”, ông hòan toàn biết rõ; làm sao mà biết? Ông xem thấy được. Cảnh giới trong mộng là từ tâm biến hiện, ông ấy xem thấy được. Từ chỗ này, chúng ta có thể thể hội đến, sắc có sắc thô, có sắc hiển, hiển hiện rất rõ ràng, có sắc cực vi tế, phàm phu chúng ta không có cách gì xem thấy được, không cách gì thể hội được, như vậy chúng ta mới có thể tin được thiền định cực kì thâm sâu của chư Phật Bồ Tát. Tâm thanh tịnh của họ, độ thuần tịnh của nó, chúng ta không cách gì tưởng tượng đến được. Trong cảnh giới của họ, niệm cực kì vi tế, hiện tượng cực kì vi tế của hết thảy chúng sanh, họ vừa nhìn đều đã rõ ràng, minh bạch. Cho nên biết, linh tri cùng với chúng ta là một thể. Linh tri đã là một thể, sắc tướng cũng là một thể.
 [Tùng bất năng cung tu chí đức], bản thân chúng ta không thể đem trình độ đạo đức của chính mình tu được đến cứu cánh viên mãn, tại sao? Đạo đức chân chánh đạt đến trình độ này, thì những động vật nhỏ đối với bạn đều cung kính, đều ái hộ. “Thân ngã” chính là ái hộ. Tuyệt đối không thể làm can thiệp đến chúng ta. Ấn Quang đại sư sau khi 70 tuổi, trong phòng của ngài ngay cả một con vật nhỏ cũng không có, muỗi, kiến, gián, bọ chét, một con cũng tìm không thấy. 70 tuổi, tu dưỡng đạo đức đã đạt đến trình dộ này. Những động vật nhỏ này đối với Đại sư vô cùng kính ngưỡng, đều đến để bảo hộ ngài, làm sao có thể đến làm phiền ngài chứ. Chúng ta xem thấy rồi, chúng ta nghe thấy rồi, bản thân cũng muốn nâng cao đức hạnh tu hành. Chúng ta ngày nay bản thân tu hành vẫn chưa đạt đến, tại sao? Vì trong hòan cảnh nơi ta cư ngụ vẫn còn những động vật nhỏ này. Không chỉ bản thân có thể thể hội, mà cũng có thể chứng minh lời nói của cổ nhân là sự thật, bởi vì bản thân đoạn ác tu thiện, tâm địa mỗi ngày mỗi thiện lương hơn, mỗi ngày so với mỗi ngày thành khẩn hơn, mỗi ngày so với mỗi ngày thanh tịnh hơn, càng ngày càng từ bi hơn. Chúng ta phải chân thành, nỗ lực mà làm, từ chỗ nào mà xem thấy? Từ trên những động vật nhỏ trong hoàn cảnh sống của chúng ta mà xem. Vật đến quấy nhiễu chúng ta ít đi, số lượng ít đi, số lần cũng ít đi, đây là bản thân chúng ta thực sự có được sự an ủi, thiện đức của bản thân đã tiến bộ, nhưng vẫn là chưa đủ. Tại sao? vì vẫn chưa chấm dứt. Nhưng bản thân có lòng tin, sau hai ba năm nữa, đại khái là hòan cảnh cư trú của chúng ta sẽ hòan toàn không còn động vật nhỏ nữa. Chúng ta tuyệt đối không được có ý niệm mang chúng đi nơi khác, đương nhiên càng không được khởi lên ý niệm sát hại chúng, chúng ta phải ái hộ động vật. Chúng ta mỗi ngày đều có thể đọc kinh, niệm phật, tu tích công đức cũng đều hồi hướng cho chúng. Chúng ta đem những động vật nhỏ này xem thành huynh đệ tỉ muội của chúng ta. Chúng ta chiếu cố chúng, chúng cũng sẽ chiếu cố chúng ta, đều có cảm ứng hiển hiện. Chúng ta xem trọng chúng, chúng cũng tôn trọng chúng ta, chúng ta ái hộ chúng, chúng cũng ái hộ chúng ta.
 Không chỉ là động vật, ngay cả thực vật, cỏ cây hoa lá cũng đều có cảm ứng. Chúng ta ái hộ chúng, chiếu cố chúng, chúng sinh trưởng rất tốt, hoa nở rất đẹp, tỏa hương thơm, đó là hồi báo của chúng để cúng dường chúng ta. Chúng ta trồng rau, trồng hoa quả, thời gian cần thiết chúng ta mới đi cắt về ăn, đó là vì lí do gì? Để chúng cam tâm tình nguyện đến cúng dường. Chúng ta đối với chúng chân thật có tâm yêu thương, hiện tại chúng ta phát hiện, người ngoại quốc thường nói thực vật thích âm nhạc, đích thật là như thế. Cho nên vườn rau của chúng tôi hiện tại đều mở âm nhạc, âm nhạc này là để cúng dường những loại thực vật đó. Hiện tại thay vì mở âm nhạc, chúng tôi đổi lại mở Phật hiệu, mở giảng kinh, chúng đều có thể nghe. Tại trên núi Toowoomba, chúng tôi đã tự trồng mướp, đại khái là trồng được không ít, pháp sư Ngộ Khiêm chăm sóc nó. Một buổi tối nọ, mướp về báo mộng cho bà, nói là mướp đã quá lớn rồi, quá già rồi, sao vẫn chưa đi hái. Đến ngày hôm sau, pháp sư Ngộ Khiêm quả nhiên là đi tìm, tìm được một quả mướp rất lớn, chân thật đã quá già rồi, sau khi hái xuống chỉ có thể để lại làm giống. Mướp có thể báo mộng gọi đi hái chúng, vì đã quá lớn rồi, cho nên thực vật đều có linh tánh, hà huống động vật.
 Cho nên chúng ta nhất định phải hiểu, nhất định phải sinh ra trong một thế giới yêu thương, trong một thế giới cảm ân, trong một thế giới hỗ tương hợp tác, đây là nhân sinh tốt đẹp biết bao! chân thiện mỹ huệ, không chỉ là khẩu hiệu, chúng ta có thể làm đến được, chúng ta có thể khế nhập vào cảnh giới này, hoan hỷ như thế tại sao lại không làm chứ? Tại sao ngày ngày sát hại chúng sanh để nuôi dưỡng bản thân? Những động vật này, chúng không phải là cam tâm tình nguyện đến cho chúng ta ăn, bạn giết hại chúng, chúng hận bạn, bạn cùng chúng kết oán cừu, oán cừu này đời đời kiếp kiếp không bao giờ hết. Phật tại trên kinh thường đề tỉnh cho chúng ta: ăn chúng nửa cân, đời sau trả chúng tám lạng, người chết làm dê, dê chết làm người. Đời đời kiếp kiếp đòi trả lẫn nhau. Sự việc này đáng sợ biết bao! Đây là ngu si đến cùng cực. Cho nên một người tu hành, chướng ngại trên con đường bồ đề rất nhiều. Chướng ngại này từ đâu mà có? Đều là từ vô lượng kiếp đến nay, cùng với trong một đời này, do vô tình hay hữu ý mà kết tạo quá nhiều quá nhiều oan cừu, oán hận, tạo thành rất nhiều rất nhiều chướng ngại. Ngày nay chúng ta rất may mắn, đọc được sách thánh hiền, nghe được giáo huấn của thánh hiền, may mắn vẫn còn một chút thiện căn phước đức, nghe rồi, đọc rồi, tin sâu không nghi, y giáo phụng hành, lão lão thật thật chân thành nỗ lực mà làm, mới chứng minh được lời giáo huấn của cổ nhân là chân thật không hư vọng. Phật giáo dạy người tín giải hành chứng, sau đó nhất định phải chứng thực chân tướng sự thật. Cho nên chúng ta phải thường thường có thể nghĩ đến sự việc này, đặc biệt là trong khi ăn uống, bạn có thể nghĩ đến, bạn mới không nhẫn tâm mà ăn thịt chúng sanh, đây là đạo lí nhất định. Tiếp theo Liễu Phàm tiên sinh lại nói:
[Như tiền nhật hảo nộ, tất tư viết, nhân hữu bất cập, tình sở nghi căng, bội lí tương can, ư ngã hà dữ, bổn vô khả nộ giả.] (Như hôm trước nóng giận, nên nghĩ rằng: Ai cũng có sơ sót, ta phải thông cảm. Nếu ai vô lí phạm đến ta, là lỗi của họ, không liên can với ta? Tại sao phải giận?)
 Điều này chúng ta phải xem được rõ ràng. Bạn tại sao lại nổi giận? Đương nhiên là xem thấy người khác đem sự việc làm sai đi, đắc tội với bạn, bạn mới nổi giận. Anh sao có thể đem sự việc đó làm sai đi chứ? Tại sao lại đắc tội với tôi? Hãy suy nghĩ một chút. Người này hủy báng ta, vũ nhục ta, tổn hại ta, ta phải nghĩ rằng: Anh ta tại sao lại có hành vi này? Anh ta đối với mình không hiểu rõ, là hiểu lầm mình, giữa hai người chúng ta không có sự thông cảm cho nên mới xảy ra hiện tượng như thế này. Việc này không thể trách anh ta được, bản thân ta cũng có chỗ không tốt. Nếu như bản thân không có chỗ nào không phải, lỗi lầm đó là của anh ta, cùng với bản thân ta đâu có can hệ chứ? Phật tại trên kinh Vô Lượng Thọ nói được rất hay, đặc biệt là xã hội mà chúng ta sống, xem thấy có nhiều người làm việc sai trái, khiến bản thân chúng ta nhiều lúc xác thực là tưởng như không nhẫn chịu nỗi, Phật tại trên kinh nói với chúng ta, tại sao họ có thể có những hành vi đó? “Tiên nhân bất thiện, bất thức đạo đức, vô hữu ngữ giả, thù vô quái dã”. Phật nói câu nói này ôn hòa biết bao! Những người này, cha mẹ của họ, trưởng bối của họ không hiểu được nhân nghĩa đạo đức, không giáo dục tốt anh ta, cho nên anh ta mới phạm lỗi, mới làm ra cái sự việc trái nghịch với pháp kỉ như vậy. Chúng ta xem thấy rồi, nghe thấy rồi, nên tha thứ cho anh ta, không thể trách anh ta. Tâm như vậy thì hòa bình biết bao, tâm lượng như vậy thì vĩ đại biết bao! Chúng ta cần phải học tập. Không thể trách anh ta. Phải dạy bảo anh ta, nếu anh ta vẫn tiếp tục phạm sai lầm, chúng ta cũng cần phải hồi đầu phản tỉnh: “Ta dạy anh ta vẫn chưa đủ tốt, vẫn chưa đủ viên mãn; ta dạy anh ta, anh ta tại sao vẫn làm không được?” Không nên đem sai lầm đổ cho người khác, phải quay lại bản thân mà suy xét kĩ càng. Thí như, hiện tại có rất nhiều người làm cha mẹ gặp tôi, họ nói rằng: “Thưa pháp sư, hiện tại con cái không nghe lời rồi”. Tôi đáp lại, tôi nói: “Con cái, học sinh của anh không có lỗi, mà là do anh dạy không tốt, anh sao có thể trách chúng chứ?” Không sai, hoàn cảnh xã hội hiện tại vô cùng xấu ác, tà tri tà kiến, thói hư tật xấu ngập tràn xã hội, người trẻ tuổi sao có thể không bị lây nhiễm chứ? Đây là nhân tố bên ngoài khiến tuổi trẻ khó dạy. Nhưng nhân tố bên ngoài, chúng ta nếu như có thể dùng sự chân thành bên trong để khắc phục, cổ nhân nói được rất hay: “tinh thành sở chí, kim thạch vị khai”. Chúng ta suy nghĩ kỹ càng, ngay cả những động vật nhỏ như kiến và muỗi đều có thể cảm động, hoa cỏ cây cối cũng có thể cảm động, con người há không thể cảm động hay sao? Không thể cảm động, là sự tinh thuần và chân thành của chúng ta chưa đạt đến. Nếu như bản thân chúng ta có thể phản tỉnh như vậy, vậy thì tốt rồi, nhất định sẽ đem đức hạnh bản thân nâng cao lên. Duy chỉ có nâng cao đạo đức bản thân, mới có thể cảm hóa được những người trẻ tuổi này. Bản thân chúng ta không có đạo đức thanh cao, một mực trách cứ người trẻ tuổi, trừng phạt chúng, đây không phải là biện pháp. Cách giáo dục này, trừng phạt không phải là một phương pháp tốt nhất, cách tốt nhất là cảm hóa, là phải dùng tâm chân thành yêu thương, tâm yêu thương thanh tịnh bình đẳng để cảm hóa nhất thiết chúng sanh. Phật Bồ tát đối với súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục đều có thể cảm hóa chúng, đều có thể khuyến đạo chúng quay đầu là bờ, huống gì là hữu tình chúng sanh chứ? Chúng ta phải nên luôn nghĩ, cần trách bản thân công phu, đức hạnh chưa đủ, quyết định không thể trách người khác vẫn không tiếp nhận cảm hóa. Đây mới có thể thành tựu bản thân, thành tựu người khác. Phật tại trên kinh thường nói: “Vị năng tự độ, nhi năng độ nhân, vô hữu thị xứ”. Câu nói này nói được rất hay. Cho nên, bạn muốn độ hóa người khác, cần phải thành tựu đức năng của bản thân, duy chỉ có đức năng của bản thân, mới có thể cảm hóa người khác, mới có thể độ hóa chúng sanh. Phật tại từ trên kinh giáo nói được viên mãn như thế, cứu cánh như thế, người đọc tụng kinh điển như chúng ta không thể khinh suất. Chúng ta không thể thành tựu, thực thực tại tại, Liễu Phàm tiên sinh ở đây nói “nhân tuần”, “thô tâm đại ý”. Tiến hơn một bước, ở đây lại nói với chúng ta:
 [Hựu úy thiên hạ vô tự thị chi hào kiệt, diệc vô vưu nhân chi học vấn, hành hữu bất đắc, giai kỉ chi đức vị tu, cảm vị chí dã].
 
Những điều này chúng tôi đã vừa nói qua, thiên hạ không có ai tự xưng mình là anh hùng hào kiệt, phàm là những người tự cho mình là hào kiệt, tự ý làm càn không chịu nghe ai, những người này tuyệt đối không phải là anh hùng hào kiệt. Xưng tán anh ta là anh hùng hào kiệt, đó chỉ là xưng tán mà thôi, hữu danh vô thực. Anh hùng hào kiệt chân chánh, tuyệt đối không một ai là tự xưng cả. Chúng ta xưng Phật là đại anh hùng, trong đại điện cúng dường tượng Phật, thường xưng là “Đại hùng bảo điện”, chúng ta xưng Phật là đại anh hùng. Phật có tự xưng hay không? Không có. Phật giảng kinh thuyết pháp cho chúng sanh, Phật nói, bản thân Phật không nói một câu. Không nói một câu, nói suốt 49 năm, ở đây là duyên cớ gì? Tất cả Phật nói đều không phải tự ngài nói. Vậy là ai? Là cổ Phật chỗ nói vậy.  Khổng lão phu tử một đời dạy học, cũng nói: đó đều không phải là ý của ông, ông một đời đều là thuật nhi bất tác, chỗ nói đều là giáo huấn của cổ thánh tiên vương. Bạn xem, khiêm tốn như thế ấy! Tuyệt đối không tự nhận, tuyệt đối không cho thêm ý kiến của mình vào, đây là anh hùng hào kiệt chân chính.
 [Diệc vô vưu nhân chi học vấn], “vưu” là ý nghĩa oán hận. Học vấn của thánh hiền, tuyệt đối không thể dẫn phát tự tư tự lợi của con người, tuyệt đối không thể dẫn phát tham sân si mạn của con người, tuyệt đối không dạy bạn hại người khác vì lợi ích bản thân, học vấn của thánh hiền không có những thứ này. Một cái từ trên “nhân” mà nói, một cái từ trên “học” mà nói. Hồi đầu lại, chúng ta liền phản tỉnh bản thân: “hành hữu bất đắc, giai kỉ chi đức vị tu”. Cho nên chúng ta cần phải hồi đầu phản tỉnh, bản thân chúng ta xác thực là đạo đức không tu, chân thành không đủ, cho nên cảm hóa của chúng ta không đạt được.
 [Ngô tất dĩ tự phản].
 Những điều này chúng ta cần phải nhận chân phản tỉnh. Cho nên cần phải giúp đỡ người khác, giúp đỡ xã hội an định hòa bình, giúp đỡ tất cả chúng sanh đạt được hạnh phúc mỹ mãn, vậy từ đâu mà làm? Từ tu đức của chúng ta mà làm. Bản thân bạn không có đức học chân chánh, làm sao có thể cảm hóa chúng sanh chứ? Bản thân vẫn còn một tơ hào tự tư tự lợi; ý niệm danh văn lợi dưỡng vẫn chưa buông bỏ, làm sao có thể cảm động được chúng sanh? Làm sao có thể hành Bồ Tát đạo? Lời nói này, câu câu đều là chân ngữ, đều là thật ngữ. Cho nên, chúng ta nghĩ đến muốn giúp đỡ thế gian này giảm thiểu tai nạn, hiện tại mọi người đều biết, thế gian có không ít người đều tin tưởng những lời dự ngôn xưa, tôi nghe rất nhiều đồng tu từ Âu châu đến, người Âu châu đều vô cùng tôn kính, tin tưởng nhà dự ngôn thế kỉ 16 Nostradamus. Họ đều xem ông ấy như thánh nhân, dự ngôn của ông ta nói rằng thế kỉ này của chúng ta có đại tai nạn, trong “Thánh kinh” của Cơ-Đốc giáo nói đến ngày tận thế của thế giới, trong kinh Koran của Islam giáo cũng nói đến ngày tận thế của thế giới, đại khái là trong giai đoạn này. Chúng ta trong một số sách xem thấy; nghe được những lời nói này, cũng lo lắng không an! Bản thân chúng ta làm sao có thể thoát khỏi tai nạn này, làm sao có thể giúp đỡ người đời vượt qua tai nạn này, có thể làm được hay không? Ngày nay chúng ta đọc được “Liễu Phàm tư huấn”, đáp án khẳng định là được. Có khả năng. Bản thân chúng ta tu dưỡng đạo đức, bản thân thì siêu việt rồi, nhà Phật chỗ nói: “trong cộng nghiệp có bất cộng nghiệp”, bản thân chúng ta có thể siêu việt. Bản thân chúng ta có thể siêu việt, thì có thể giúp đỡ quảng đại khổ nạn chúng sanh. Làm sao để giúp đỡ họ? nhất định phải dùng đức hạnh, dùng học vấn đi cảm hóa họ, khiến họ giác ngộ, giúp họ liễu giải, giúp họ hối cải, cũng có thể đoạn ác tu thiện, tích công lũy đức, tai nạn này có thể hóa giải. Tuy rằng không thể hoàn toàn hóa giải, nhưng có thể đem mức độ tai nạn của nó giảm thiểu, đem thời gian tai nạn rút ngắn lại, hiệu quả này thì là công đức rất lớn. Chúng ta cần phải nhận chân để nỗ lực làm. Làm thế nào để tu dưỡng đức hạnh bản thân? Trong sách này đã cử ra rất nhiều ví dụ, chúng ta cần phải tỉ mỉ mà thể hội, xem xét nhiều lần. Phía sau ông ấy lại cử ra một ví dụ:
 [Tắc báng hủy chi lai, giai ma luyện ngọc thành chi địa, ngã tương hoan nhiên thụ tứ, hà nộ chi hữu]. (dù gặp người hủy báng ta, đó đều là cơ hội cho ta rèn luyện. Ta phải cảm thấy mừng mới đúng, có gì mà phải tức giận).
 Điều này, chúng ta mỗi một người thời thời khắc khắc đều gặp phải, chúng ta có thể làm được không? Người khác ác ý hủy báng ta, sau khi ta nghe xong, có thể hay không, ngay một tơ hào tâm niệm oán hận cũng không khởi? Đây là công phu.
 Có người làm bài vè ở bên ngoài hủy báng tôi, có đồng tu nói với tôi rằng: “Người đó nói xấu bạn, hủy báng bạn”, anh ta vừa mở miệng, tôi liền ngăn anh ta lại, không cần phải nói tiếp. Anh ta cảm thấy vô cùng kinh ngạc! Anh ta nói: “Tại sao?” Tôi nói với anh ta: “Tôi hi vọng tâm của tôi đối với người đó vĩnh viễn bảo trì ấn tượng tốt, tôi không hi vọng những bất thiện của anh ta, ngôn hành của anh ta nằm trong tâm tôi, tôi không hi vọng điều đó.” Tôi vĩnh viễn ghi nhớ chỗ tốt của người khác, ghi nhớ chỗ thiện của người khác, mắt tôi nhìn thiên hạ đều là người tốt, đều là người thiện. Tuyệt đối không đem những bất thiện của người khác để ở trong tâm, đem tâm của tôi biến thành bất thiện, đây là tổn thất quá lớn quá lớn rồi.
 Người nói xấu tôi, phá họai tôi, trước đây đối với tôi rất tốt, tôi vĩnh viễn cảm ơn anh ta, nhận ân đức của anh ta. Về sau mọi việc bất thiện, đều là có nhân tố khác, trong số nhân tố này một nửa là hiểu lầm. Anh ta tại sao lúc trước thì đối xử với tôi tốt, hiện tại lại không tốt? Lúc trước tôi đối với anh ta có chỗ lợi, hiện tại tôi đối với anh ta hình như không còn lợi ích nữa. Từ trên lợi hại, tâm lí, thái độ, ngôn hành đều thay đổi rồi. Sự thay đổi này, tôi nhận rõ, tôi quá khứ đối với anh ta tốt, hiện tại đối với anh ta càng tốt, là anh ta không hiểu. Tại sao? Trong mắt anh ta chỉ là lợi hại của danh văn lợi dưỡng. Tôi hôm nay đã nâng cao lên một bước, tôi hôm nay hoàn tòan nói về đức hạnh, trên đạo đức đã đề thăng lên, trên danh lợi tôi đều buông xả. Tôi đối với anh ta tốt, anh ta không hiểu, anh ta sinh ra hiểu lầm, tôi nên tha thứ cho anh ta. Nói tha thứ cho anh ta thì bụng dạ tôi hẹp hòi rồi, đã sai rồi, hoàn toàn không có sự việc này. Cái sự việc này, nó tại chỗ khác có thể phát sinh, trong tâm mắt tôi vĩnh viễn không hề phát sinh bao giờ. Chúng tôi mới có thể hồi quy lại đến tự tánh, hồi quy đến thiên tánh.
 Cư sĩ Hứa Triết vì sao đã 102 tuổi mà vẫn trẻ như thế, vẫn khỏe mạnh như thế? Một đời không sinh bệnh, vẫn có thể vì xã hội khổ nạn chúng sanh mà phục vụ. Bà phục vụ cho những người già, kỳ thực những người già đó nhỏ tuổi hơn bà rất nhiều, bảy tám mươi tuổi, bà đã hơn một trăm tuổi mà vẫn phục vụ người khác. Nguyên nhân là gì? Trong tâm không xen tạp một tơ hào tâm niệm bất thiện. Quyết định không cho phép một tơ hào thứ gì bất thiện trong tâm tôi, tôi phải ngăn ngừa. Trong tâm tôi chỉ dung nạp thiện tâm, thiện hành, thiện đức của tất cả chúng sanh, đây mới là tu dưỡng đạo đức bản thân. Cho nên chúng ta gặp phải người hủy báng, vũ nhục, hãm hại, tôi cảm kích. Tại sao? Từ trong hòan cảnh này để kiểm nghiệm trình độ công phu của bản thân rốt cuộc đã đạt đến mức nào. Nếu như tôi vẫn còn có một niệm tâm chán ghét, còn một ý niệm không vui, bản thân lập tức quay lại sám hối, đức hạnh tôi chưa đủ, tại sao vẫn không chịu được thử thách. Cho nên quyết định là “hoan hỷ thụ tứ, hà nộ chi hữu?” Mọi người đối với tôi như vậy, tôi dùng thái độ này để đối với họ, chầm chậm truyền đến đối phương, đối phương có thể cảm kích, sẽ hồi đầu thị ngạn. Tôi cứu bản thân mà cũng là cứu người khác. Nếu như tôi vừa nghe người khác hủy báng, tôi liền phát nộ, tôi liền có tâm báo thù, oan oan tương báo không bao giờ kết thúc, tự hại mình hại người. Đạo lí này không khó hiểu, sự việc này lợi hại được mất cũng không phải là khó hiểu. Hãy suy nghĩ nhiều một chút, tư duy nhiều một chút, chúng ta mới có thể cứu mình, cứu người, tự độ độ tha, sao có thể không vui vẻ mà làm chứ?
 Cho nên, một người ở tại thế gian, hi vọng trong một đời đều có thể bảo hộ được tâm chân thành của mình, đều có thể vĩnh viễn giữ gìn tâm yêu thương của mình, yêu thương nhất thiết chúng sanh. Người khác yêu thương mình, thì mình thương yêu lại người đó không khó. Người hận mình, mình yêu thương họ, đây mới gọi là công phu chân chánh, đức hạnh chân chánh, học vấn chân chánh. Chúng sanh tạo tác ngũ nghịch thập ác, tôi vẫn là yêu thương anh ta chân thành bình đẳng, bởi vì tôi biết anh ta có Phật tánh, câu đầu tiên trong Tam tự kinh: “Nhân chi sơ, tính bổn thiện”. Tôi biết bản tánh anh ta vốn thiện, chân tâm của anh ta, chân tánh của anh ta vốn là thiện, tôi tôn trọng anh ta, tôi yêu quý anh ta. Anh ta nhiễm những tập khí bất thiện này, đó đều không phải là thật, đều có thể cải đổi. Cho nên chỉ cần một niệm hồi đầu, anh ta liền là người thiện, khôi phục đến bổn lai của anh ta. Đây là đạo lí, chân tướng sự thật không thể không biết. Liễu Phàm tiên sinh tiếp theo nói:
 
[Hựu văn báng nhi bất nộ], xem như không có việc đó.
 
[Tuy sàm diễm huân thiên, như cử hỏa phần không, chung tương tự tức].
 
Từ lúc còn trẻ học Phật cho đến nay, tôi hiểu được, tôi minh bạch. Hình như là đến năm ngoái, pháp sư Ngộ Đạo từ Đài Loan mang đến một vài tờ báo, tạp chí viết cho tôi, viết cho tôi một phong thư. Đây đều là những những người xuất gia ở Đài Loan, nêu tên tôi ra mà hủy báng tôi, vũ nhục tôi. Nói tôi đề xướng bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ là sai lầm rất lớn, dạy sai cho rất nhiều người niệm Phật, bài viết được rất dài. Pháp sư Ngộ Đạo tìm một số đồng học đến, muốn viết một bức thư để phản bác lại. Tôi lập tức gọi điện đến nói với ông ấy, bảo rằng: “tùy ý người ta mắng, một câu cũng không được nói”. Tại sao? Anh ta chửi mệt rồi thì không chửi nữa, cũng tôi không can hệ gì! Anh ta viết văn chương cứ để anh ta viết, anh ta đến một ngày cũng sẽ viết mỏi, chúng ta một tơ hào phản ứng cũng không có. Pháp sư Ngộ Đạo nén giận, tốt! Nghe lời, chúng tôi không để ý gì đến anh ta. Hiện tại còn mắng nữa hay không? Đây là mắng người phải biết, hai người càng mắng càng hăng; nếu như chỉ có một người mắng, người kia không phảng pháng gì, đến sau khi mắng mệt rồi, anh ta tự nhiên không mắng nữa. Người ngồi ở đây rất thoải mái, ngồi đây làm gì? Ngồi nghe hát. Người nào cao, người nào thấp? Người bên ngoài sẽ nói: “Người này có tu dưỡng, người kia phong độ không tốt”. Do người phê bình, chúng ta hà tất phải nói một câu? Huống gì mắng người cũng rất mệt, nổi giận thì có hại cho sức khỏe vô cùng nghiêm trọng, nổi giận một lần, cư sĩ Hứa Triết nói: “ba ngày cũng không thể hồi phục”. Bạn tại sao lại phải nổi giận chứ? Anh ta mắng bạn, bạn rất khó chịu; anh ta mắng người khác, bạn tại sao lại không khó chịu? Anh ta mắng tôi “Tịnh Không”, Tịnh Không là tên giả, rất nhiều người đều có thể gọi là Tịnh Không, tôi hà tất phải thọ chịu chứ? Người ta mắng bạn, bạn đều có thể tiếp nhận, bạn ngốc, bạn ngu si sao! Bạn nghe thấy, cũng như anh ta mắng người khác không khác, cùng tôi không can hệ, tâm bình khí hòa. Oan này thì được hóa giải, đối với tôi hiểu lầm cũng được hóa giải, không cần phải để ý đến anh ta. Đánh nhau cũng như vậy, nếu như hai người đánh thì càng đánh càng hăng, nếu chỉ có một người đánh, còn người kia không động thủ, người đánh chỉ mới đánh vài cái thì cảm thấy bối rối, anh ta đánh tiếp, mà người ta vẫn không đánh trả, không đánh, bản thân lại thấy khó coi. Phương pháp này đối với người muốn đánh nhau rất có hiệu quả, tôi đều dùng qua. Khi tôi còn trẻ, gặp phải một số bạn bè tức giận, anh ta đánh tôi, tôi không đánh trả, anh ta làm tôi ngã, tôi ngã xuống đất không đứng lên. Người đứng bên xem thấy, anh ta tại chỗ đó rất bối rối khó chịu, muốn đánh, đánh được vài cái, không đánh nữa, giống như không có cách gì thu hồi, chiêu này của tôi rất cao minh. Cho nên không cần tranh với người, nhất định phải bảo trì tình hữu nghị tốt, sai lầm này, hiểu lầm này, hi vọng thời gian có thể có thể làm phai giảm, tình hữu nghị dài lâu, phải trường cửu. Đây là đạo lí làm người. Giúp đỡ bản thân, thành tựu người khác. Cho nên, tất cả những lời vu khống đều sẽ tiêu trừ, bất tất chúng ta phải biện bác, càng biện càng sai, không nên biện bác, tự nhiên có thể hóa giải, đây thì tốt. Hôm nay chúng ta chỉ giảng đến đây thôi. A MI ĐÀ PHẬT.

 


Ngủ rồi be-buti

Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 8)
2013-06-07 10:54:13
(PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 17/04/2001.
 
Chi vị đồng tu, xin chào mọi người!
 Phía trước đã giảng đến “Cơ sở của việc sửa lỗi”, nói đến chúng ta phải biết hổ thẹn, kế đến phải phát tâm úy kính. Chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, không phải chỉ sợ thiên địa quỷ thần thấy biết mà còn phải sợ sự chỉ trích của dư luận xã hội. Hôm nay chúng ta xem tiếp văn bản phía sau:
 [Bất duy thị dã, nhất tức thượng tồn, di thiên chi ác, do khả hối cải]. (Không chỉ như vậy, chỉ cần còn một hơi thở, các tội ác đều có thể hối sửa.)
 Đây là y cứ lí luận của việc sửa đổi làm mới. Con người chỉ cần là vẫn còn một hơi thở thì tội nghiệp cực đại trong một đời đều có thể hối cải.
 [Cổ nhân hữu nhất sanh tác ác, lâm tử hối ngộ, phát nhất thiện tâm, toại đắc thiện chung giả]. (Người xưa có người cả đời làm ác, nhưng trước khi chết ăn năn lỗi lầm, phát một niệm thiện, liền an ổn qua đời.)
 Đây là đưa ra chứng cứ để thuyết minh cho chúng ta. Ví dụ như thế, từ xưa đến nay, trong và ngoài nước đều có rất nhiều, chỉ cần tỉ mỉ mà quan sát, bạn liền có thể thấy được. Tại sao một đời tạo tác tội nghiệp cực trọng, chỉ cần chân thành sám hối thì những tội chướng đó liền có thể tiêu trừ, đạo lí là ở chỗ nào? Thực tại mà nói thì đạo lí này quá sâu quá sâu, không phải phàm phu có thể lí giải được. Phật tại trong kinh có nói: không chỉ phàm phu không thể lí giải, mà ngay cả Thánh giả Nhị thừa, Quyền giáo Bồ tát đều không có cách nào lí giải được. Tại sao? Điều này có liên quan đến nguồn gốc của hư không pháp giới vũ trụ, khởi nguyên của sinh mệnh, khởi nguồn của chúng sanh; liên quan đến đại đạo lí này, trong kinh Lăng Nghiêm, Phật giảng được rất thấu triệt, rất rõ ràng. Cho nên, người xưa Trung Quốc tán thán kinh Lăng Nghiêm rằng: khai trí huệ là Lăng Nghiêm, thành Phật là Pháp Hoa, tôi tin tưởng hai câu nói này rất nhiều đồng tu đều đã nghe nói qua. Trong kinh Lăng Nghiêm nói được rất minh bạch, Phật nói với chúng ta, hư không pháp giới quốc độ chúng sanh bổn lai là một thể. Do vậy, tội ác cực đại, chỉ cần hồi đầu, cái gọi là “hồi đầu thị ngạn”-quay đầu là bờ. Đây là đạo lí, phía sau nói đến:
 [Vị nhất niệm mãnh lệ] (Cho nên người ta nói một niệm dũng mãnh). “Mãnh lệ”, hai từ này vô cùng quan trọng.
 [Túc dĩ địch bách niên chi ác dã.] (cũng đủ để gột sạch tội ác trăm năm). Phía sau cử ra một ví dụ nói với chúng ta:
 [Thí như thiên niên u cốc], (Thí như một hang tối ngàn năm).
 Chúng ta ngày nay trong lúc đi du ngoạn gặp được rất nhiều nham động, thạch nhũ động, đó đều là “thiên niên u cốc”.
 [Nhất đăng tài chiếu, tắc thiên niên chi ám câu trừ], (vừa thắp lên ngọn đuốc thì ngàn năm tối tăm liền biến mất.)
 Chúng ta vừa thắp lên một ngọn đèn thì ngàn năm tối tăm liền bị phá trừ.
 [Cố quá bất luận cửu cận, duy dĩ cải vi quý]. (Cho nên không cần biết là tội lỗi nhiều ít hay lâu mau, điều quan trọng là phải biết hối cải.)
 Lỗi lầm cũng như bóng tối, chỉ cần một ngọn đèn liền có thể phá tan bòng tối. Ngọn đèn này được tỉ dụ với trí huệ, với giác ngộ, chân chánh giác ngộ, quá khứ tạo tác lỗi lầm, chỉ cần một niệm giác, một niệm chân trí huệ hiện tiền, lỗi lầm liền tiêu trừ. Tuy nhiên, cái niệm giác, cái niệm trí huệ này vô cùng khó có được, vô cùng đáng quý. Vì sao? Bởi vì chúng ta mê đắm trong dục vọng tình chấp đã qúa lâu rồi, từ vô lượng kiếp đã mê muội trong dục vọng tình chấp. Sinh mệnh là vĩnh hằng, sinh mệnh không phải là ngắn tạm mà là vĩnh hằng. Thân mạng chúng ra rất ngắn ngủi, nhưng tinh thần thì trường cửu; trong nhà Phật nói, chúng ta có Pháp thân huệ mạng, đó thì là vĩnh hằng. Cho nên, vô lượng kiếp sinh tử luân hồi, mê mất đi bổn tánh, mù quáng vô tri nên cho rằng thân thể này là ta, vì vậy mà tham đồ hưởng thụ ngũ dục lục trần, tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp, điều này tạo thành những sự việc không như ý trong hiện đời. Chúng ta nếu muốn gặp lành tránh dữ, trước tiên phải biết sửa sai. Sửa sai, Liễu Phàm tiên sinh đã đem những kinh nghiệm của bản thân ông, tại đây tỉ mỉ nói ra cho chúng ta, đặc biệt đề tỉnh chúng ta, chỉ cần còn một hơi thở, chỉ cần chịu sửa đổi, tội lỗi dù lớn hơn nữa cũng có thể tiêu trừ. Tiếp theo ông nói:
 [Đản trần thế vô thường, nhục thân dịch vẫn, nhất tức bất chúc, dục cải vô do hĩ.] (Nhưng đời người vô thường, thân thể dễ hoại. Một khi hơi thở không còn nữa, muốn hối cải cũng đã muộn).
 Trần thế là chỉ thế gian này. Không chỉ thân này của chúng ta vô thường, quốc độ cũng là vô thường. Phật trong kinh “Bát đại nhân giác”, ở đoạn đầu đã nói với chúng ta: “Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy”. Hai câu này là lời cảnh báo chân thật, thế gian là vô thường, biến đổi trong mỗi sát na, thân thể này của chúng ta rất dễ dàng mất đi. Thân người khó được mà dễ mất, một hơi không thở ra thì thân mạng đời này đã kết thúc rồi. Đến lúc này, bạn có muốn cải đổi cũng không có biện pháp nữa, chính là “dục cải vô do hĩ” vậy.
 [Minh tắc thiên bách niên đam phụ ác danh, tuy hiếu tử từ tôn, bất năng tẩy dịch]. (Trên dương thế mang tiếng xấu trăm ngàn năm, dù có con hiếu cháu ngoan vẫn không cách nào rửa sạch được.)
 Đây là luận theo thế tục, bạn tạo tác ác nghiệp quá nặng, tiếng ác của bạn truyền đến đời sau, người hậu thế nghe đến tên của bạn thì liền sanh lòng chán ghét. Giống như trong lịch sử Trung Quốc, thông thường từ trên những bài nghiên cứu nhỏ, chúng ta xem thấy Tần Cối đời Tống: Đây là một người cả đời tạo tác ác nghiệp nặng nề, để lại tiếng xấu trăm ngàn năm, con cháu ông ta dù có hiếu đến đâu cũng không cách gì giúp ông ta rửa sạch tiếng xấu, đây là một ví dụ.
 [U tắc thiên bách kiếp trầm luân ngục báo, tuy thánh hiền Phật Bồ tát, bất năng viên dẫn, ô đắc bất úy]. (Dưới cõi âm, trăm ngàn kiếp bị đọa vào địa ngục, dù chư thánh hiền, chư Phật-bồ tát có lòng thương xót cũng chẳng thể cứu được. Vậy không lo sợ sao được?).
 Như vậy làm sao không sợ? Thế gian lưu tiếng xấu, là một việc rất không vinh hạnh gì. Người hiện tại thường nói “vinh dự là sinh mạng thứ hai của con người”, con người xem trọng vinh dự như thế, kỳ thật đây chỉ là yếu tố thứ yếu. Nghiêm trọng nhất là quả báo đời sau. Ác nghiệp tạo tác quá nhiều, tội thập ác ngũ nghịch, Phật tại trên kinh thời thời khắc khắc đều đề tỉnh chúng ta, đây là tội nghiệp đọa địa ngục A Tỳ. Nói đến địa ngục, đó là nơi vô cùng đáng sợ. Phật tại trong “Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh” nói được rất rõ ràng, tạo tác tội nghiệp cực trọng, sẽ cảm lấy quả báo nơi địa ngục. Địa ngục từ đâu mà có?
 Năm xưa lúc tôi mới học Phật, lão cư sĩ Chu Kính Trụ đã kể cho tôi một câu chuyện, đây là sự việc có thật. Nhạc phụ của ông là tiên sinh Chương Thái Viêm, lúc đó ở tại Bắc Kinh, ông ấy có một đoạn thời gian được Đông Nhạc Đại Đế mời làm phán quan. Đây là nói đến có quỷ thần, chân thật là có! Đông Nhạc Đại Đế ở Thái Sơn tỉnh Sơn Đông của Trung Quốc, địa ngục trong sự quản hạt của ông có năm, sáu tỉnh, phạm vi quản hạt rất lớn. Cát hung họa phước, sự sống chết của con người trong địa ngục này đều do ông chưởng lí. Địa vị của Phán quan rất cao, tương đương với bí thư trưởng. Đông Nhạc Đại Đế mời Chương Thái Viêm đến đảm nhiệm công việc này. Tiên sinh Chương Thái Viêm nói, buổi tối quỷ tốt mang kiệu đến, lúc đó không có xe, mang kiệu đến mời ông ngồi lên kiệu, ông liền đi làm việc. Ngày hôm sau, lúc tờ mờ sáng, ông mới xong việc, liền mang ông quay trở về. Ông ngày đêm đều không nghỉ ngơi, ban ngày ông tại nhân gian chúng ta làm việc, tối đến ông lại đến quỷ đạo làm việc.
 Ông cũng thường thường đem những điều ông thấy được nghe được trong quỷ đạo kể lại cho một số bạn bè. Có một lần, ông kể đến việc ông hỏi Đông Nhạc Đại Đế (Vua Diêm La so với Đông Nhạc Đại Đế vẫn còn cao hơn một bậc), ông nói: “hình phạt trong địa ngục, có một lọai gọi là pháo lạc”, pháo lạc là đốt cột đồng cháy đỏ, rồi bắt tội nhân ôm lấy. Chương Thái Viêm nói: “Hình phạt đó quá tàn nhẫn, hi vọng Đông Nhạc Đại Đế hãy phát lòng từ bi, đem hình phạt này bỏ đi”. Đông Nhạc Đại Đế nghe xong câu nói này, gật gật đầu không nói gì. Rồi ông bảo: “Ngài hãy đi quan sát đã, hãy đến hình trường xem xét trước đi”. Thế là Đông Nhạc Đại Đế liền phái hai tiểu quỷ đưa Chương Thái Viêm đến hình trường xem xét, ông liền đi xem. Sau khi đến nơi đó, tiểu quỷ liền nói với ông, chúng nói: “Đây là hình trường, mời ngài xem”. Ông nhìn không thấy gì cả, thế là hốt nhiên đại ngộ, nguyên lai hình phạt trong địa ngục không phải là do Diêm La vương thiết lập, không phải do ông ta đặt ra, nên cũng không có cách gì bỏ đi. Vậy hình phạt này từ đâu mà có? Chính là do tội nghiệp của bạn chiêu cảm mà biến hiện ra. Cũng giống như người gặp phải ác mộng, tự làm tự chịu, hoàn tòan không phải là do người khác tạo ra bắt bạn phải chịu. Ông hoát nhiên đại ngộ, về sau ông không đề xuất vấn đề này nữa, ông mới hiểu được đạo lí chân thật Phật nói trong kinh. Tất cả mọi cảnh giới: cho dù là cảnh giới hoan hỷ, hay cảnh giới thống khổ, không một cảnh nào không phải là do tự tâm biến hiện ra, đây chính là Phật tại trên kinh Hoa Nghiêm nói: Nhất thiết pháp, bao gồm, thiên thượng, địa ngục, đều là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Tâm, chính là chân tâm của bạn, thức là vọng tâm, y theo vọng tâm mà tạo tác thiện nghiệp ác nghiệp. Tâm của bạn thiện lành; bạn làm việc thiện thì tự nhiên cảnh giới xuất hiện ra là chí thiện mỹ mãn. Tâm ác, niệm ác, hành vi ác thì cảnh giới hiện ra tự nhiên là tai nạn. Cho nên, thiên thượng là do tự tâm bạn biến hiện ra, địa ngục cũng là tự tâm chúng ta biến hiện ra, hòan cảnh sống hiền tại của chúng ta cũng vẫn là do tự tâm biến hiện ra.
 Thế là có người liền hỏi: “Tâm của tôi làm sao có thể biến hiện ra được cảnh giới như vậy?” Đây đích thực là một vấn đề then chốt. Cái gì là tâm? Tâm ở tại chỗ nào? Tâm có hình dạng ra sao? Đây là vấn đề lớn trong nhà Phật. Nếu như có thể đem vấn đề này giải quyết, câu này có nghĩa, vấn đề gì bạn cũng đều có thể giải quyết được, đây gọi là từ căn bản mà giải quyết. Vấn đề này được nói đến trong kinh Lăng Nghiêm, sở dĩ vậy nên nói: Khai trí huệ là Lăng Nghiêm, không sai! Ở đoạn đầu của kinh Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật cùng tôn giả A Nan thảo luận về chân tâm, vọng tâm, tâm ở tại chỗ nào, tâm có hình dạng ra sao, tâm có tác dụng gì? Kinh văn quá dài, bao gồm 10 quyển, thảo luận về vấn đề này. Cho nên thiền tông nói rằng: “Nhược nhân thức đắc tâm, đại địa vô thốn thổ”. Ý nghĩa của câu nói này là: một người chân chánh có thể nhận thức “tâm” được rõ ràng minh bạch, thì thế -xuất thế gian tất cả mọi pháp bạn đều thông đạt không nghi ngại. Đây là sự thật.
 Cho nên, nhất thiết duy tâm tạo, nhất thiết pháp duy thức sở biến. Vì vậy, chúng ta không thể không lo sợ. Cảnh địa ngục hiện tiền, chư Phật Bồ Tát tuy rằng đại từ đại bi, liệu có thể cứu độ bạn được hay không? Nếu như bạn chấp mê bất ngộ, Địa Tạng Vương Bồ tát dù có từ bi hơn nữa cũng không cứu nổi bạn. Phật Bồ Tát đích thực là thường ở tại địa ngục để cứu giúp cho những khổ nạn chúng sanh, đau họng nhọc lòng mà giáo hóa chúng. Người tiếp nhận nhất định phải giác ngộ, nhất định phải tin tưởng, có thể giải, có thể hành, như vậy anh ta mới có có hội thoát li khỏi khổ báo của địa ngục, sau đó mỗi tầng mỗi tầng không ngừng đề thăng lên. Cho nên ân đức của Phật là lớn nhất, còn siêu vượt hơn cả cha mẹ. Cha mẹ đối với ta là ân đức trong một đời này, còn ân đức của chư Phật Bồ tát đối với chúng ta là đời đời kiếp kiếp, vĩnh viễn không thể xả ly. Chúng ta tạo tác tội ác có nghiêm trọng hơn, các ngài cũng không bỏ rơi chúng ta. Điểm này thực tại mà nói thật quá vĩ đại, là điều chúng ta nên hướng đến các ngài học tập. Lại xem kinh văn phía sau:
 [Đệ tam, tu phát dũng tâm], (thứ ba là phát tâm dũng mãnh).
 Dũng mãnh tinh tiến, sửa sai làm mới. Nói đến sửa sai, Liễu Phàm tiên sinh đề xuất ra ba tâm, ba tâm này chúng ta nhất định phải ghi nhớ. Điều thứ nhất là tâm tri sỉ-tâm biết hổ thẹn, làm người không thể không biết hổ thẹn; thứ hai là tâm kính úy; thứ ba là tâm dũng mãnh. Bạn nếu có thể có đủ ba tâm này thì việc sửa sai không khó nữa. Ông nói:
 [Nhân bất cải quá, đa thị nhân tuần thoái súc], (Nhiều người không chịu sửa lỗi, đa số là vì phóng túng biết lỗi mà không sửa nên bị thoái hậu.)
 “Nhân tuần” là qua loa đại khái. Bất luận làm việc gì cũng không nỗ lực, cho nên lỗi lầm của bạn khó sửa được. “Thoái súc” chính là thóai chuyển. Đây chính là lí do tại sao con người không thể sửa sai, bao nhiêu người muốn sửa lỗi mà sửa không được, chính bởi 4 chữ “nhân tuần thoái súc” làm chướng ngại.
 [Ngô tu phấn nhiên chấn tác, bất dụng trì nghi, bất phiền đẳng đãi]. (Chúng ta cần phải phấn chấn dụng công, không chờ đợi, không trù trừ, hoài nghi nữa).
 Đây chính là dáng vẻ của tâm dũng mãnh. Cái gì gọi là “dũng mãnh”? Cần phải phấn chấn lên, tuyệt đối không hồ nghi, phải lập tức sửa sai. Không nên nói rằng: lỗi lầm này “đợi đến ngày mai, đợi đến năm sau” hãy sửa. Vậy thì bạn không cách gì sửa sai được. Phải lập tức sửa ngay, không được chần chừ.
 [Tiểu giả như mang thứ tại nhục, tốc dữ quyết dịch, đại giả như độc xà giảo chỉ, tốc dữ trảm trừ, vô ti hào ngưng trệ, thử Phong Lôi chi sở dĩ vi ích dã]. (tạm dịch : Phạm lỗi lầm nhỏ như bị gai đâm, phải lễ gai ngay tại chỗ; phạm lỗi lầm lớn như bị rắn độc cắn ngón tay, phải chặt liền tức khắc, phải dứt khoát không chút chần chừ do dự. Làm được như vậy mới có ích lợi như quẻ Phong Lôi vậy.
 
Lỗi nhỏ cũng giống như gai đâm vào thịt, chúng ta phải nhanh chóng lễ gai ra. Đây là chúng ta có kinh nghiệm. Lỗi lớn ví như bị rắn độc cắn vào ngón tay, ngay lập tức phải đem ngón tay đó chặt đứt. Nếu như không chặt, nọc độc của nó chạy vào tim, sẽ khiến người mất mạng. Vào lúc đó, quyết không được do dự, phải làm ngay tức khắc, không tơ hào nghi ngại. Đây chính là nói : “Phong Lôi chi sở dĩ vi ích-lợi ích của quẻ Lôi Phong”, Phong Lôi là một quẻ trong kinh Dịch, nắm được hiện tượng của nó, gió thổi sấm chớp; hiện tượng ngày xuân, vạn vật sinh trưởng, cho nên nó có ích lợi, nên gọi là “Phong Lôi ích”. Tại đây có thể hình dung được tướng trạng của việc dũng mãnh sửa sai, lập tức đoạn dứt.
 [Cụ thị tam tâm, tắc hữu quá tư cải, như xuân băng ngộ nhật, hà hoạn bất tiêu hồ]. (Có đầy đủ ba tâm ấy, ắt lỗi lầm đều cải sửa được ngay, cũng như băng tuyết mùa xuân gặp mặt trời, há tội lỗi chẳng tiêu tan ư!).
 Sửa lỗi cần phải có đủ ba cái tâm trên, sau đó bạn mới có thể sửa. Hai câu sau là tỉ dụ, thí như băng mùa xuân, băng ngày xuân gặp phải ánh nắng mặt trời, mặt trời xuất hiện thì băng liền tan chảy. Đem băng tỉ dụ cho tội ác, lấy Thái dương chỉ cho tâm dũng mãnh; dũng mãnh sửa sai, thì lỗi lầm này của bạn liền tiêu trừ.
 [Nhiên nhân chi quá, hữu tùng sự thượng cải giả, hữu tùng lí thượng cải giả, hữu tùng tâm thượng cải giả. Công phu bất đồng, hiệu nghiệm diệc dị], (Tuy nhiên, tội lỗi có thể theo sự tướng, theo lý, hoặc theo tâm mà cải sửa. Dụng công không giống nhau thì hiệu quả cũng không tương đồng).
 Đây là nói ba hiệu quả không tương đồng, có người từ trên sự mà sửa, có người từ trên lý mà sửa, có người từ trên tâm mà sửa. Tuy nhiên chư vị cần phải biết, cần phải có đủ ba tâm phía trước đã nói. Nếu như không có ba tâm đó, bất luận là bạn từ trên phương diện nào cũng không có cách gì mà hạ thủ, đều là không đạt được hiệu quả. Phía sau là cùng chúng ta phân biệt, trước tiên là nói « từ trên sự mà sửa ».
 [Như tiền nhật sát sanh, kim giới bất sát; tiền nhật nộ lị, kim giới bất nộ; thử tựu kì sự nhi cải chi giả dã, cường chế ư ngoại, kì nan bách bội, thả bệnh căn chung tại, đông diệt tây sanh, phi cứu cánh khuyếch nhiên chi đạo dã.] (tạm dịch : Như ngày trước phạm lỗi sát sinh, ngày nay giữ giới không sát sinh nữa; như ngày trước nóng giận mắng chửi, ngày nay giữ giới không nóng giận nữa. Như thế gọi là theo sự mà cải sửa vậy. Chỉ miễn cưỡng kiềm chế từ bên ngoài, thực là khó trăm phần vì bệnh căn vẫn còn, tội này hết tội kia liền sanh, không phải là phương pháp cứu cánh.)
 
Đây là trước tiên nói về  từ trên “sự” mà sửa. Từ trên sự mà sửa thì khó thành tựu, đây là một loại hành vi ép chế. Chỉ tạm ngừng phạm lỗi mà thôi, cách này đích thực là có giới hạn, có điểm bão hòa, sửa đổi không triệt để. Cử ra một thí dụ, thí như trước đây bạn hay sát sanh, hiện tại đã phát tâm trì giới, bạn đi thọ giới, thọ ngũ giới: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Bạn phát tâm trì giới, năm giới này giúp chúng ta  đoạn trừ năm loại tập khí nghiêm trọng; vì tập khí quá nghiêm trọng nên đoạn trừ vô cùng khó khăn. Bạn hiện tại không sát sanh, bạn sẽ giữ giới không sát sanh này bao lâu? Lúc trước bạn thường hay nổi nóng, thích mắng người, hiện tại nhờ trì giới nên bạn không nóng giận nữa. Cử ra ví dụ này cho thấy đây là từ trên sự mà sửa, là một loại hành vi ép chế, rất khó khăn.
 [Bệnh căn chung tại]-bệnh căn là tại đây, Tại sao? Tham sân si mạn là gốc bệnh, đây là thứ không thể đoạn trừ, cho nên một khi cảnh giới hiện tiền, tham sân si mạn sẽ lại khởi hiện hành. Có một số người thiện căn sâu dày, có thể đè phục xuống được. Nếu người không đủ thiện căn, ngày ngày thường gặp phải nghịch cảnh quá lớn, thì không cách nào chế phục được. Nếu chướng duyên ít thì họ mới có thể làm được, có thể khống chế được, nhưng nếu chướng ngại lớn thì không có khả năng. Phía sau nói: “lỗi này vừa trừ, lỗi kia lại sanh, đây không phải là phương pháp cứu cánh”. Đây là từ trên sự mà sửa. Cho nên chúng ta cần phải liễu giải, người học Phật rất nhiều, đều có thiện tâm, đều muốn sửa sai, mọi người phát tâm đi thọ giới, sau khi thọ giới lại làm không được. Tôi gặp được không ít người, họ hỏi tôi: “Thưa pháp sư, con đã thọ giới rồi, lại không làm được, lại phạm giới, phá giới, vậy phải làm sao?” Việc này thì khó.
 Kế đến, Liễu Phàm dạy cho chúng ta từ trên lí mà sửa, lí luận- công phu này so với phía trước cao hơn một tầng.
 [Thiện cải quá giả], thiện thì có thể, người có thể sửa lỗi.
 [Vị cấm kỳ sự, tiên minh kỳ lí], (khi còn chưa phạm cấm giới, trước hết phải biết rõ đạo lý.)
 Nếu như chúng ta muốn nghĩ đến không sát sanh, trên mặt “sự” hòan toàn chưa đoạn, ý nói hiện tại ta vẫn chưa bỏ được việc sát sanh. Trước tiên phải hiểu rõ vì sao không sát sanh, phải đem cái đạo lí này hiểu cho minh bạch.
 
[Như quá tại sát sanh], chúng ta có cái lỗi sát sanh này.
 [tư tức viết], “tư” là phải thường thường nghĩ.
 [Thượng đế hiếu sinh, vật giai luyến mệnh, sát bỉ dưỡng kỉ, há năng tự an?] (Thượng đế hiếu sinh, mọi vật đều yêu sinh mạng của mình, giết chúng để nuôi dưỡng thân mình, há có thể an lòng sao?)
 Trước đây, vì không ai dạy nên chúng ta hồ đồ, sau này không dám nghĩ đến việc này nữa. Sau khi tiếp nhận sự giáo huấn của thánh hiền, chúng ta nghe được những lời giáo huấn này, thường thường ghi nhớ trong lòng. Đích thực là trời có đức hiếu sinh, tất cả động vật, nào có đạo lí không yêu tiếc thân mạng của mình? Ngay cả đến muỗi kiến cũng đều tham sống sợ chết, chúng ta sao có thể nghĩ rằng giết chúng để nuôi dưỡng thân mình chứ, tâm chúng ta liệu có an ổn không? Nếu như ngược lại, mọi người giết chúng ta để nuôi dưỡng họ, chúng ta có cam tâm tình nguyện hay sao? Phải thường thường phải nghĩ đến đạo lí này.
 [Thả bỉ chi sát dã]. Bạn phải thường nghĩ đến trạng huống của động vật khi bị giết.
 [Ký thọ đồ cát, phục nhập đỉnh hoạch]. (đã chịu chặt, cắt, mổ xẻ cho vào nồi nấu nướng). “Đỉnh nhập” là bị nấu nướng trong nồi.
 [Chủng chủng thống khổ, triệt nhập cốt tủy.] (chúng phải chịu bao nhiêu nỗi thống khổ đau đớn thấu nhập cốt tủy).
 Chúng ta thử đặt mình vào vị trí của nó mà suy nghĩ, nếu như động vật đó là ta, ta bị người khác giết hại, sau đó bị họ nấu nướng, bị ăn thịt.  
 [Kỷ chi dưỡng dã, trân cao la liệt, thực quá tức không].
 
Chúng ta phải thường thường nghĩ đến điều  này. Tôi là năm hai mươi sáu tuổi gặp được quyển sách này, sau khi đọc xong, tôi vô cùng cảm động. Cho nên sau khi tiếp xúc, đại khái là sau sáu tháng, tôi liền ăn chay trường. Tôi thường thường nghĩ đến, “không nhẫn tâm ăn thịt chúng sanh”, luôn nghĩ đến những trạng huống này, thật đáng sợ! Lại nghĩ đến quả báo, mà thấy lạnh người.
 Lúc trước, cha tôi còn sống, ông là quân nhân. Thời gian kháng chiến, trong nhà tôi súng ống rất nhiều. Lúc đó, tôi vẫn còn nhớ rất rõ, súng ngắn, súng dài, trong nhà tôi đại khái là có tám cái. Cha tôi rất thích săn bắn, khi còn nhỏ chúng tôi thường theo cha đi săn bắn, ngày ngày có đồ tươi để ăn. Nhưng sau khi kháng chiến thắng lợi, cái trạng huống mà cha tôi chết, cùng với trên kinh Địa Tạng nói hoàn toàn tương đồng. Ông ầy phát bệnh cuồng, nhìn thấy núi, ông liền chạy lên núi rất giống dã thú, dáng vẻ của ông hoàn toàn giống với thú; thấy nước, ông liền chạy xuống khoan. Phật tại trên kinh nói về quả báo của sát sanh, tôi đã đích thân nhìn thấy. Nghĩ tới tình cảnh của cha tôi từ lúc phát bệnh cho đến lúc tử vong, tôi vô cùng kinh sợ! Bản thân tôi cũng săn thú ba năm, cũng giết không ít chúng sanh, cho nên nghĩ đến tình cảnh đó, lại đọc quyển sách này, tôi không dám nữa. Tôi bắt đầu từ năm 26 tuổi ăn trường chay, phóng sanh để chuộc lỗi, tội sát sanh trong quá khứ quá nặng. Cho nên sau khi tôi học Phật, tôi chỉ làm ba việc: in kinh, là học Ấn Quang Đại sư; phóng sanh để tiêu trừ tội nghiệp sát sanh; bố thí thuốc men, xem thấy có rất nhiều người bị bệnh rất khổ, người nghèo không có khả năng mua thuốc, tôi mỗi tháng quyên một ít tiền để bố thí thuốc men. Tôi làm ba sự việc này, rất đơn giản, rất đơn thuần.
 Ở đoạn này, văn tự nói rất hay, “kỉ chi dưỡng dã”, đây là nói tập quán sinh hoạt thường ngày của con người chúng ta.
 [Trân cao la liệt], đây là nói món ăn của chúng ta phong phú, bạn có nghĩ đến “thực quá tức không” hay không? Chúng ta tham đồ mỹ vị, vì ai mà tham đồ? Chúng ta sát sanh ăn thịt, cũng là vì ai? Đầu lưỡi phân biệt đươc mùi vị. Chẳng qua chỉ là ba tấc lưỡi mà thôi, lại tạo tác vô lượng vô biện tội nghiệp, thật không đáng! Đây là đạo lí, đây là sự thật, chúng ta đã chân thật nghĩ qua hay chưa?
 Nếu như nói ăn chay không có dinh dưỡng, thức ăn chay có cản trở cho sức khỏe, tôi có thể làm chứng minh cho quý vị, tôi ăn chay đến nay đã tròn 50 năm, tôi một đời không có sinh bệnh, xác thực là khỏe mạnh trường thọ. Thể lực của tôi không suy, tình trạng sức khỏe cũng có thể duy trì được lâu dài, nguyên nhân tại vì sao? vì ăn chay. Thực tại mà nói, tôi đối với cái sự việc dưỡng sinh vô cùng hàm hồ, không có tìm cầu, chân thật là không có hiểu biết. Duy chỉ có một điều đáng tiếc trên thân thể là răng của tôi không tốt. Răng của tôi không rụng, đều là răng tốt, chỉ là răng không dủ tiêu chuẩn. Nguyên nhân gì? Không biết cách bảo vệ răng. Đến năm ngoái, có một đồng tu đưa tôi đi khám răng, tẩy răng cho tôi. Bác sĩ tẩy răng nói với tôi rằng: “Thưa pháp sư, răng của ngài rất tốt, bảo vệ được rất tốt. Đây là chỗ đắc lực của việc ngài ăn chay. Hơn bảy mươi tuổi, răng của người khác đều không bằng Ngài”. Ông ấy dạy cho tôi cách bảo vệ răng: “Sau mỗi lần ăn, nhất định phải đánh răng, xúc miệng, nhưng không dùng kem đánh răng. Kem đánh răng chỉ dùng vào hai lần sáng, tối. Bình thường súc miệng nhiều, đánh răng nhiều.” Cái này tôi không hiểu. Trước đây tôi chỉ là sáng sớm đánh răng một lần, buổi tối không đánh răng, cho nên đối với răng không có chiếu cố tốt. Nếu như tôi sớm gặp được vị bác sĩ đó, lúc trẻ biết cách bảo vệ răng, thì hiện tại răng của tôi cùng với người hai, ba mươi tuổi như nhau. Cho nên vị bác sĩ đó bảo tôi phải biết bảo vệ răng cho tốt. Tôi đã từng cho là rất tốt rồi, nhưng vẫn là chưa đủ tốt. Hiện tại tôi đã hiểu được, sau khi ăn cái gì, tôi liền đánh răng súc miệng. Trong kẻ răng nhất định không để tồn tại bất cứ thứ gì, điều đó rất dễ mang theo vi khuẩn. Răng tốt, hệ thống tiêu hóa của chúng ta mới tốt được, người mới có thể không sinh bệnh.
 Ăn chay đối với sức khỏe có lợi ích rất lớn, đặc biệt là độ tuổi trung niên trở lên. Sau độ tuổi trung niên không biết chế độ trị liệu trên ẩm thực, đối với sức khỏe thân thể có ảnh hưởng rất lớn. Đây là từ chế độ ăn uống hàng ngày, chúng ta thường nói đến vệ sinh. Người thế gian hiểu biết cần phải có vệ sinh, thế nhưng vẫn còn một điều quan trọng mà mọi người sơ suất, đó là cái gì? Vệ sinh, sinh là tính tình tốt, nó có ảnh hưởng đến tâm lí. Cho nên Islam giáo (Hồi giáo), ăn uống của họ rất có quy củ, có rất nhiều thứ họ không thể ăn. Tôi đã từng nghiên cứu giáo nghĩa của họ, tại sao lại không ăn? Nguyên nhân vì những động vật đó tính tình không tốt. Phàm là động vật, thực vật tính tình không tốt, họ đều không ăn. Tại sao? Sợ ảnh hưởng đến tính tình của mình. Họ biết giữ vệ sinh, bảo vệ tâm trạng tốt, chúng ta ngày nay nói đến tâm trạng, đây là so với người thường cao minh hơn. Về sau, tôi đọc kinh Phật, Phật nói được càng cao  minh hơn, Phật nói ba điều, ngoại trừ nói cần có vệ sinh, còn có vệ tánh, vệ tâm; nhằm để bảo hộ tâm từ bi của chúng ta, bảo hộ tâm thiện lương của chúng ta. Cho nên, không ăn thịt của tất cả chúng sanh, điều này có đạo lí. Nhà Phật xác thực là thông tình đạt lí, người thông thường chúng ta nói là, giáo học này hợp tình, hợp lí, hợp pháp, đây không phải là bất biến, nó rất sống động, chúng ta phải hiểu được đạo lí này.
 Trong các loại rau, nhà Phật có 5 loại không thể ăn, năm loại này gọi là “ngũ huân thái”. Chư vị hãy thử nghĩ mà xem, chữ “huân” là bộ thảo (cỏ), “huân” không phải là thịt, thịt gọi là “tinh-thịt sống”; nhà Phật gọi là “huân tinh”, điều này thì ngăn cấm. Thịt là thuộc về “tinh”, “huân” là chỉ cho năm loại, năm loại rau, nhưng tổng thể đều là một loại: hành, tỏi, hẹ, nén, kiệu; năm loại này thì không được ăn. Tại sao không được ăn? Năm loại này ăn vào sẽ kích thích sinh lí, dễ phát tâm sân hận, bởi vì nguyên nhân là để ngăn ngừa nóng giận, cho nên phải ngăn trừ. Nấu thức ăn, mấy thứ này có thể sản sinh ra hooc-môn, dễ dẫn khởi tính dục, chính là nguyên nhân này, không phải là gì khác. Nhưng nếu như chỉ dùng nó làm hương liệu, phối với rau thì có thể được. Tại sao? Nó không thể khởi dụng. Cho nên, nhất định phải hiểu được những cấm kị của nhà Phật dụng ý là ở tại chỗ này.
 Giới cấm uống ruợu trong nhà Phật, ngũ giới là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, Phật nói bản thân rượu không có tội, nhưng khi uống rượu say sợ bạn gây ra sát, đạo, dâm, vọng. Cho nên giới cấm rượu là phòng ngừa, bản thân nó không có tội, điều này chúng ta phải hiểu. Tuy nhiên, khi nấu ăn nếu dùng hương rượu thì không sao cả. Hương rượu này, bạn phải biết rằng nó không thể làm say. Nhà Phật chế định những giới này đều thông tình đạt lí, đặc biệt giới rượu có khai duyên rất nhiều, “khai duyên” tức là khai giới mà không phạm giới, trong một thời kỳ nhất định có thể uống rượu. Trong giới kinh có nói, bảy mươi tuổi trở lên, tình trạng sức khỏe kém, máu huyết lưu thông chậm, mỗi bữa ăn đều có thể uống một li rượu. Tại sao? giúp cho máu huyết tuần hòan, đây là dùng làm thuốc. Trong trung dược, có rất nhiều lúc dùng rượu làm dẫn dược, đều có thể dùng. Cho nên không phải nói cái gì cũng không được dùng. Hiện tại có rất nhiều người trì giới, đối với những giới nhỏ nhặt này trì giữ rất nghiêm, còn giới trọng thì khinh suất, điều này thì sai rồi, hòan toàn làm sai rồi! Cho nên, cái sự việc này không thể không tỉ mỉ phân biệt, đừng nên chết cứng trên giới điều, nếu như vậy thì cái gì cũng hành không thông. Có người nói “giới điều giết người”, đây là do họ hiểu sai ý nghĩa của nó, xác xác thực thực là cách nghĩ cách nói của người thông thường. Họ không biết giới luật nhà Phật rất sống động, giới luật có khai, già, trì, phạm. Bạn nhất định phải hiểu được tinh thần của nó, phải hiểu được Phật vì sao lại chế ra giới điều này. Giới này phải vận dụng như thế nào trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, vận dụng ra sao dưới tình huống gì; nó sống động, linh họat. Bạn mới hiểu được, giới luật là đại tự do, giới luật là đại tự tại, là đọan ác hành thiện. Minh bạch đạo lí này, chúng ta tự nhiên có thể chọn lựa ăn chay, hoan hỷ ăn chay.
 Dưỡng tâm là dưỡng tâm thanh tịnh, cần phải nuôi dưỡng tâm chân thành, tâm bình đẳng, tâm từ bi. Bạn phải biết dưỡng tâm, dưỡng tánh; lại hiểu được dưỡng sanh, giữ vệ sinh, thân thể bạn tự nhiên khỏe mạnh, bạn làm sao có thể sanh bệnh? Tân Gia Ba có cư sĩ Hứa Triết, bà năm nay đã 102 tuổi, bà thường nói: “Chúng ta muốn trường thọ, chúng ta không muốn già, chúng ta không muốn bệnh”. 102 tuổi, mỗi ngày vẫn chiếu cố cho nhiều bệnh nhân nghèo khổ, mỗi ngày đều rất bận rộn. 102 tuổi, ngoại trừ đầu tóc bạc phơ, răng chỉ rụng có một cái, tôi nhìn không ra bà có bệnh. Khỏe mạnh, hoạt bát, giống như người trẻ tuổi. Cho nên tại Tân Gia Ba, mọi người đều biết “người thanh niên 102 tuổi”, đây là tấm gương đáng cho chúng ta học tập, noi theo.
 [Sơ thực thái canh, tẫn khả sung phúc, hà tất tường bỉ chi sanh, tổn kỉ chi phúc tai] (canh dưa cũng đủ no bụng, hà tất phải sát hại mạng chúng sanh, làm tổn phúc báu của chính mình.)
 
Hà tất phải giết động vật khác để làm tổn hại phúc báu của mình ư? Đây quyết định là hành vi, suy nghĩ sai lầm.

 


Ngủ rồi be-buti

Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 7)
2013-06-06 16:47:28
(PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 17/04/2001.
  Chư vị đồng tu, xin chào mọi người!
  Mời xem “Liễu Phàm tứ huấn” thiên thứ hai: “Phương pháp sửa lỗi”, chúng ta từ đoạn thứ hai xem:
 [Đãn cải quá giả, đệ nhất, yếu phát sỉ tâm, tư cổ chi thánh hiền, dữ ngã đồng vi trượng phu, bỉ hà dĩ bách thế khả sư, ngã hà dĩ nhất thân ngõa liệt, đam nhiễm trần tình, tư hành bất nghĩa, vị nhân bất tri, ngạo nhiên vô quý, tuơng nhật luân ư cầm thú nhi bất tự tri hĩ, thế chi khả tu khả sỉ giả, mạc đại hồ thử, Mạnh tử viết, sỉ chi ư nhân đại hĩ, dĩ kì nhi đắc thánh hiền, thất chi tắc cầm thú nhĩ, thử cải quá chi yếu ki dã.]
 (TẠM DỊCH: Người muốn sửa lỗi, đầu tiên là phải biết xấu hổ. Nghĩ đến các bậc thánh hiền ngày xưa cũng là con người như chúng ta, tại sao họ có thể nêu gương ngàn đời mà chúng ta lại thân bại danh liệt. Vì ta đắm mê trần tình, lén làm những việc bất nghĩa, tưởng không ai biết nên ưởn ngực không biết xấu hổ, có ngày sống như cầm thú mà không hay, không gì đáng xấu hổ bằng. Mạnh tử nói biết xấu hổ đối với con người rất quan trọng. Người biết xấu hổ sẽ ngang hàng với thánh hiền, còn không biết xấu hổ thì khác gì cầm thú. Đó là chỗ then chốt của việc sửa lỗi.)
 Nói về sửa lỗi, Liễu Phàm tiên sinh đưa ra ba điểm: Điểm thứ nhất là tâm hổ thẹn. Cái gọi là “tri sỉ cận hồ dũng-biết sỉ nhục là gần với dũng vậy”. “Dũng” lã dũng mãnh ở việc sửa sai tự làm mới, cho nên ở đây câu thứ nhất ông nói “đản cải quá giả-nhưng người biết sửa sai”. Phương pháp sửa sai, đệ nhất là “yếu phát tu sỉ tâm-cần phải có tâm biết hổ thẹn”. Người có thể tri sỉ-tức người biết hổ thẹn, anh ta quyết định không khởi vọng tưởng, không động niệm ác. Chúng ta phải thường nghĩ đến Đại Thánh Đại Hiền thời xưa, họ cũng là người như chúng ta; Phật tại trong kinh điển thường nói: chúng ta cùng với chư Phật Như Lai nguyên lai vốn dĩ là người phàm phu. Tại sao họ có thể trở thành Phật, thành Bồ Tát, thành thánh, thành hiền; còn ta tại sao lại không thể? Lấy tiêu chuẩn này mà quan sát, chúng ta mới có thể khởi phát tâm hổ thẹn. Họ đích thực là thầy của trăm đời. Khổng lão phu tử truyền đến hiện tại đã hơn 2500 năm, Thích Ca Mâu Ni Phật truyền đến ngày nay gần 3000 năm, tại sao họ có thể ở tại thế gian này, không phân quốc gia, không phân chủng tộc, thậm chí là không phân biệt tôn giáo, mà lưu truyền đến ngày nay. Thế gian vẫn còn rất nhiều người tôn kính họ, tiếp nhận sự giáo huấn của họ, hướng đến họ học tập? Đây gọi là đại trượng phu. Họ có thể làm được, tại sao ta lại làm không được? Người người thường có cái tâm niệm này, nhất định có thể phát phẩn tự cường-tự mình nỗ lực cố gắng.
 Tiếp theo là nói đến bệnh căn của chúng ta: “Ngã hà dĩ nhất thân ngõa liệt- Sao ta lại để thân tàn hủ bại”, ngõa liệt-hình dung giống như một món đồ gốm bị phá nát, không còn giá trị! Bệnh của chúng ta là “đam nhiễm trần tình- tức là đắm say trần tình”, đam là vui sướng thái quá, nhiễm là ô nhiễm; người thế gian đắm chìm trong thất tình ngũ dục, mà không biết thất tình, ngũ dục đó đều không thật. Trong đó có khoái lạc, cũng không sai, Thánh nhân cũng không phản đối, nhưng cái giá mà bạn phải trả lại quá lớn; câu này có nghĩa là “lợi bất cập hại”. Cái giá quá lớn này, nếu như không phải Phật đã tỉ mỉ nói rõ ra trong kinh thì chúng ta làm sao có thể tưởng tượng đến được. Cái giá mà chúng ta phải trả này chính là lục đạo sanh tử luân hồi. Nếu như chân chánh hiểu rõ, minh bạch thì chúng ta mới biết sợ. Thế-xuất thế gian không có cái gì đáng sợ hơn việc này. Do đây có thể biết, Thánh hiền ở tại thế gian cũng không thể li khai khỏi thất tình ngũ dục, tuy nhiên họ đối với chúng rất đạm bạc, hơn nữa hành vi của họ rất hợp lễ hợp pháp. “Lễ” - nhất định phải có tiết độ, câu này ý nói không thể thái quá, cũng không thể bất cập; bất cập là không hợp lễ, thái quá cũng là không hợp lễ. Cho nên khi nói đến “lễ” luôn kèm theo “tiết”, tiết là tiết độ. Trong việc giáo dục của Cổ Thánh Tiên Hiền, gia đình kết hôn sinh con, vợ chồng tương kính như tân-kính trọng nhau như khách, họ đều có tiết độ, tuyệt đối không phải là “tùng tình đam nhiễm-thuận theo trần nhiễm thế gian”, quyết không phải như vậy. Điều này cùng với xã hội hiện tại không giống nhau! Cho nên gia đình của họ hòa hài, gia đình có trật tự. Câu này đặt ở phía trước, dụng ý vô cùng sâu sắc, là đem bệnh căn của chúng ta thảy đều nói hết ra. Phàm phu sở dĩ không thể thành Thánh, bệnh căn là tại chỗ này!
 Bây giờ chúng ta nói đến chỗ thô thiển nhất của nó. Con người tuy rất thích hưởng thụ thất tình ngũ dục, nhưng con người càng yêu quý sinh mạng của mình hơn. Đến lúc phải xả bỏ, đại khái họ có thể xả bỏ thất tình ngũ dục, nhưng không muốn từ bỏ thân mạng của mình, hơn họ luôn hi vọng bản thân được trường thọ, đây là suy nghĩ thường tình của con người. Nếu bạn muốn sống lâu, trên các phương diện của cuộc sống, bạn phải biết tiết chế. Lời người xưa nói không sai :“bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất”.
 Bạn muốn tránh tai họa thì không thể không cẩn trọng lời nói, không thể không cẩn trọng thái độ của mình. Nếu muốn thân thể khỏe mạnh, việc ăn uống của bạn không thể không cẩn thận. Ngày nay rất nhiều người mong cầu khỏe mạnh trường thọ, nhưng họ không hiểu được đạo lí này, cho nên từ độ tuổi trung niên trở lên, thân thể liền suy nhược. Là do không hiểu được đạo dưỡng sinh vậy!
 Tôi tiếp xúc với Phật pháp, lúc đó tôi 26 tuổi. Tiếp xúc được nữa năm, tôi hiểu rõ lợi ích của việc ăn chay, đối với sức khỏe thân thể có lợi ích, nên tôi liền quyết tâm ăn chay. Tôi học Phật nữa năm thì ăn trường chay, từ năm 26 tuổi cho đến bây giờ, ăn chay đã tròn 50 năm. Lúc đó, một số cấp trên, đồng học và bạn bè đều nói tôi bị mê hoặc, khuyên tôi không nên làm như vậy, họ nói rằng: “Tuổi còn nhỏ, học Phật thì còn được, chứ trong nhà Phật có rất nhiều việc không nên làm!” Tôi đáp lại rằng: “Tôi biết Phật pháp quá trễ rồi. Thời xưa có rất nhiều người chỉ mới mười mấy tuổi đã học Phật, đã tiếp xúc với Phật pháp, tôi đến 26 tuổi mới biết đến Phật pháp, đã là quá trễ rồi!” Thế nhưng đến sau này, lúc tôi năm, sáu mươi tuổi, bạn bè trước đây nhìn thấy tôi, thái độ lúc trước đã hoàn tòan thay đổi, khi thấy tôi họ đều nói: “Con đường của ông đi rất đúng!” Hiện tại lại trải qua hai mươi mấy năm nữa, khi họ nhìn thấy tôi, ai ai cũng đều ngưỡng mộ! Họ là ngưỡng mộ cái gì? Ngưỡng mộ tướng mạo tôi đã thay đổi, thể chất cũng thay đổi. Tôi năm nay đã 75 tuổi, không sinh bệnh, thân thể rất khỏe mạnh. Năm ngoái, Chính phủ Úc mời tôi ở lại vĩnh viễn, chiếu theo quy định tôi phải đi khám sức khỏe. Sau khi khám xong, bác sĩ nói với tôi: “Thưa pháp sư, Ngài đến kiểm tra là việc dư thừa rồi”. Tôi nói: Cho dù là việc dư thừa thì cũng phải làm.” Đây là ý gì? Đây là lợi ích thứ nhất trong việc tu học Phật pháp, mọi người đều có thể nhìn thấy được. Thể lực của tôi ngày nay, đại khái có thể bì kịp với người ba, bốn mươi tuổi. Vị bác sĩ đó hỏi tôi: Ngài rốt cuộc là ăn thức ăn gì, dùng thực phẩm dinh dưỡng nào? Tôi nói: Tất cả thực phẩm dinh dưỡng, tôi một chút cũng không dùng đến. Tại sao? Những thực phẩm đó đều có tác dụng phụ. Cuộc sống càng đơn giản càng tốt, chỉ cần rau xanh, đậu phụ là được rồi. Tôi đối với việc uống nước, những thức uống tôi không dùng, vì bên trong những thức uống đó, thực tại mà nói, hiện nay người ta nói đến vệ sinh, những thức uống đó hòan toàn không vệ sinh, trong đó có rất nhiều chất hóa học. Ngay đến cả trà, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, mọi người mời tôi uống trà, vì tôn kính người mời nên tôi mới uống. Bản thân tôi không uống trà, tôi chỉ uống nước. Ăn cũng rất ít, quyết không ăn những thức ăn nhẹ-tức những thức ăn sẵn.
 Mỗi ngày, thời gian đọc sách của tôi rất nhiều, buổi tối đại khái là tôi đọc đến 12 giờ mới đi ngủ, ngày hôm sau, xấp xỉ hơn 6 giờ sáng thì thức dậy. Nếu không có việc gì thì sau khi ăn cơm trưa xong nghỉ ngơi một chút, nếu có việc thì có thể không cần phải ngủ, tinh thần vẫn rất sung mãn, công việc bình thường, bạn có thể nói là ăn chay không có dinh dưỡng sao? Bản thân tôi có thể làm một chứng minh cho bạn. Hơn nữa rất nhiều người xuất gia thân thể rất tốt, thân thể mập mạp, họ không ăn thịt!
 Nhân tố chính yếu của sức khỏe là tâm thanh tịnh, không có vọng tưởng, không có tạp niệm. Thứ đến là chế độ ăn uống hằng ngày phải đúng như pháp. Có quy củ, có tiết chế, quyết định là không nhiễm ngũ dục lục trần, tâm bạn mới có thể thanh tịnh, nhất định phải buông xuống danh văn lợi dưỡng, buông xả tham sân si mạn. Tâm địa thanh tịnh, đây là nhân tố chính yếu của sức khỏe; nhất định phải tùy duyên mà không phan duyên, đây là ngoại duyên của sức khỏe. Có nhân tố chính, có ngoại duyên, quả báo của sức khỏe tự nhiên sẽ hiện tiền.
 “Đam nhiễm trần tình”, “trần” là chỉ cho ngũ dục lục trần; ngũ dục là tài sắc danh thực thùy, lục trần là sắc thanh hương vị xúc pháp, những thứ này cần phải có tiết chế. Nếu như không có tiết chế, tuỳ theo tình mà phóng dật, hậu quả thật không thể lường được, như vậy chính là bạn đã phá hoại thân thể của mình rồi.
[Tư hành bất nghĩa], bất nghĩa là chỉ những việc không nên làm. Vô luận là đối người, đối sự hay đối vật, nhất định phải nghĩ đến: Chúng ta có nên làm như vậy hay không? Đối với ngôn ngữ thì cần phải nghĩ đến: lời nói này mình có nên nói ra hay không? Người chân thật có tu dưỡng, anh ta hiểu được bản thân phải rất cẩn trọng. Tư hành bất nghĩa-lén làm điều bất nghĩa, “vị nhân bất tri”, cho rằng người khác không biết, đây là sai rồi. Cổ nhân nói: “nhược dục nhân bất tri, trừ phi kỉ mạc vi - nếu muốn người không biết, trừ phi mình đừng làm”. Bí mật giấu giếm đến cuối cùng cũng có một ngày sẽ bại lộ, nào có việc gì mà người không biết chứ?
 “Ngạo nhiên vô quý”, “ngạo” là chỉ ngạo mạn, “vô quý” là không có tâm “tàm quý”; “tàm” chính là lương tâm cắn rứt, “quý” là chế tài của dư luận. Người ngoài đến phê bình bạn, bạn không quan tâm, “vô quý” là không quan tâm. Ngày nay chúng ta thường nói là “da mặt dày”, hành vi như vậy “tương nhật luân ư cầm thú nhi bất tự tri”- ngày càng đọa lạc vào đường cầm thú mà không tự biết. Câu nói này chúng ta phải tỉ mỉ mà thể hội. “Cầm thú” là ba đường ác, ý nghĩa của nó là: bạn nhất định sẽ đọa vào ba đường ác, mà bạn vẫn không tự mình nhận biết.
 Phật tại trong kinh thường nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe.” Chúng ta một khi mất đi thân người, đời sau có thể có lại thân người chỉ là một con số rất ít, đại bộ phận là đời sau không thể có được thân người. Điều kiện để có được thân người là gì? Không chỉ trong Phật pháp, mà Cổ Thánh Tiên Hiền Trung Quốc đều đã nói với chúng ta; cũng giống như ngũ giới thập thiện trong nhà Phật, trong nhà Nho là luân thường đạo lí, ngũ luân thập nghĩa, bạn đều có thể làm được không có khiếm khuyết, thì đời sau bạn nhất định được thân người. Chúng ta đời nay có thể được thân người, cho thấy ngũ giới thập thiện tu được trong đời quá khứ chúng ta tu được là không tệ, đời này mới có được quả báo như vậy. Nhưng trong đời này, chúng ta có thể làm được như vậy hay không? Điều này thì phải hỏi bản thân ta.
 [Thế chi khả tu khả sỉ giả, mạc đại hồ thử], ý nghĩa câu này là nói Thánh Hiền vốn dĩ cũng giồng như chúng ta. Ngày nay, họ làm Thánh, làm Hiền, làm Bồ Tát, làm Phật, hay đã sinh Thiên rồi; còn chúng ta ngày nay tư tưởng, kiến giải, ngôn hành đều bất thiện, tiền đồ của ta trong tương lai là ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh, quả báo thật sai biệt thật quá lớn! Chúng ta xem thấy họ cảm thấy thật đáng hổ thẹn!
 Có người hỏi tôi rằng: “ Thưa Pháp sư, tại sao ngài học Phật?” Đáp án của tôi rất đơn giản: “Học Phật chính là học Cái thân này hiện tại vẫn còn, vẫn chưa li khai nó, chúng ta cần phải dùng cái thân thể này làm công cụ để thay cho xã hội, cho chúng sanh làm nhiều việc tốt; hiện tại mọi người thường nói là “vì nhân dân phục vụ, vì quốc gia phục vụ, vì chúng sanh phục vụ”, cái thân thể này là một công cụ.Thánh Nhân, học làm một người minh bạch.” Duy chỉ có minh bạch, mới có thể đem cảnh giới của bản thân đề thăng lên, hiện tiền sống trong cảnh giới của Phật, Bồ Tát; tương lai nhập vào cảnh giới của chư Phật, Bồ Tát. Chúng ta học Phật, mục tiêu chân chánh là ở tại chỗ này.
 
 Trong “Liễu Phàm tứ huấn” nói đến chính là cải ác tu thiện, tích công lũy đức, vì đại chúng làm một mô phạm. Làm mô phạm không thể không có công cụ, thân thể chính là một công cụ tốt, cùng với chúng ta một tơ hào cũng không quan hệ, chúng ta cần phải hiểu rõ cái đạo lí này.
 [Mạnh tử viết, sỉ chi ư nhân đại hĩ, dĩ kì nhi đắc thánh hiền, thất chi tắc cầm thú nhĩ, thử cải quá chi yếu ki dã.]
 Nho gia thường nói: “tri sỉ cận hồ dũng”, bạn cần phải làm được như vậy, bạn mới có thể thành thánh thành hiền; nếu như bạn thất trách, không biết tri sỉ, bạn liền đoạ lạc vào đường cầm thú, ngạ quỷ và địa ngục. “Tri sỉ” là bí quyết quan trọng để cải lỗi, chúng ta không thể không chú ý.
 Có một năm tôi ở tại Houston-Mỹ quốc giảng kinh, gặp được một vị đồng tu, ông làm giáo thọ trong một trường học bên cạnh. Khi chúng tôi ăn cơm, ông đã hỏi tôi một vấn đề rằng: “Xã hội ngày nay động loạn không an, phải từ nơi đâu để cứu giúp xã hội?” Điều mà ông nghĩ đến chính là đề cập đến hai chữ “tri sỉ” này. Ông nói: “Người hiện tại sở dĩ dám tạo tác ác nghiệp, mang đến những bất an động loạn cho xã hội, truy cứu nhân tố căn bản của nó thì chính là không biết tri sỉ. Cho nên ngày nay nhất định phải đề xướng tri sỉ.” Sau khi tôi nghe xong, tôi đồng ý với cách nói của ông. Ông lúc đó liền nghĩ ra, ông nói: “Chúng ta thành lập một học xã biết tri sỉ”. Tôi nói: “Rất tốt, ngài hãy lên chương trình, tôi sẽ hưởng ứng”.
  Sau đó, tôi rời khỏi nước Mỹ, cái sự việc này đại khái cũng không quan tâm nữa. Cho nên, một việc tốt như vậy, nhất định phải có người nhiệt tâm thúc đẩy. Trong xã hội có thể tìm kiếm những người vẫn quan tâm đến truyền thống đạo đức luân lý, những người khi nghe nói đến điều này vẫn còn sanh tâm hoan hỷ, tập hợp họ trở lại, thành lập một xã đoàn, bản thân chúng ta nhận chân nỗ lực mà học tập, ra sức thúc đẩy, hoằng dương, đây là một việc làm rất tốt. Cư sĩ này họ Thái, là cư sĩ Thái.
 Chúng ta xem tiếp điều thứ hai: [Đệ nhị: yếu phát úy tâm]. (Điều thứ hai là cần phải phát lòng úy kính, e dè sợ sệt)
 Tri úy là biết lo sợ, biết lo sợ mới đủ để phát khởi tâm thành kính.
 
[Thiên địa tại thượng, quỷ thần nan khi, ngô tuy quá tại ẩn vi, nhi thiên địa quỷ thần, thật giám lâm chi, trọng tắc hàng chi bách ương, khinh tắc tổn kì hiện phúc, ngô hà khả dĩ bất cụ]. (Trời đất ở trên, quỷ thần khó xem thường, lỗi của chúng ta tuy đem giấu kín, người đời có lẽ không biết nhưng thiên địa quỷ thần đều thấu rõ, tội nặng ắt sẽ giáng trăm điều tai ương, lỗi nhẹ ắt sẽ giảm phúc hiện tiền. Chúng ta há chẳng đáng nên sợ hay sao!)
“Úy” là sợ, là e ngại, ở đây còn hàm ý nghĩa cung kính, “úy” thường đi kèm với “kính”, gọi là “kính úy-kính sợ”. Trong quá khứ, con em đối với cha mẹ, tôn trưởng; học trò đối với thầy cô, đều có tâm úy kính, vừa kính yêu vừa sợ sệt. Nếu như không có tâm e sợ, không biết tri sỉ, chư vị thử nghĩ xem, chúng có thể làm ra cái sự việc tệ hại đến mức nào? Cái xã hội ngày nay, người biết tri sỉ ít rồi, người có tâm úy kính cũng ít rồi, nguyên nhân là tại chỗ nào? Nguyên nhân là do không có sự dạy dỗ tốt. Con người không phải là Thánh Hiền, không phải là Phật Bồ Tát tái lai thì việc giáo dục là quan trọng hơn tất cả. Hiểu được đạo lí này, hiểu được phương pháp này, xác thực chỉ có Cổ Thánh Tiên Hiền Trung Quốc. Trong “Lễ kí-Học kí”, chúng ta đọc đến đoạn: “Kiến quốc vi dân, giáo học vi tiên-xây dựng đất nước thì giáo dục làm đầu”, lại xem xem lịch sử Trung Quốc, từ xưa đến nay, kiến lập một chính quyền, hình thành một triều đại, không quá 5 năm, quốc gia đó nhất định chế tác lễ nhạc để giáo hóa nhân dân, cái công tác này phải hoàn thành. Cho nên vào thời chiến tranh loạn lạc, các triều đại thay thế nhau rất nhanh đã có thể khôi phục được trật tự xã hội. Duy chỉ có triều đại mà chúng tôi sống, người thời này rất đáng thương, rất khổ cực! Sau khi triều Mãn Thanh diệt vong cho đến ngày nay, Lễ Nhạc đều không được chế tác. Lễ Nhạc không được ban bố. Cái thời đại này, tương lai lịch sử sẽ gọi là “thời loạn”, trong lịch sử Trung Quốc, đây là thời kỳ động lọan kéo dài nhất. Đời sống nhân dân, quan hệ giữa người và người, không biết phải làm như thế nào.
 Lúc trước, tôi ở Đài Loan, có người hỏi tôi. Thông thường tại Đài Loan, cha mẹ qua đời, y phục mà con cái họ măc, có người mặc đồ tang làm bằng gai, có người đồ trung sơn màu đen. Đồng tu xem thấy như vậy liền hỏi tôi, anh ta nói: “Như vậy có hợp lễ hay không?” Tôi trả lời: Từ khi Trung Hoa Dân Quốc kiến lập đến ngày nay, không có ban bố Lễ Nhạc. Người mặc đồ tang bằng gai là dùng lễ đời nhà Thanh, còn người mặc đồ đen là dùng lễ của người ngoại quốc. Tôi gật gật đầu nói: đều có thể được, bởi vì đất nước không chế tác Lễ, nên nhân dân làm thế nào cũng đều có thể được. Không có Lễ, cùng với quá khứ không giống nhau. Quá khứ thời đại đế vương, Lễ Nhạc được coi trọng vô cùng. Mặc y phục không thể tùy tiện mà mặc, thân phận của bạn như thế nào thì mặc trang phục như thế ấy, sĩ nông công thương đều có sự phân biệt, mọi người một khi nhìn thấy liền biết bạn làm cái hành nghiệp gì, trong xã hội địa vị như thế nào; người có địa vị thấp hơn bạn, nhất định đối với bạn tôn trọng, phải hành lễ. Hiện tại không còn nữa. Hiện tại bạn xem thấy tại Đài Loan, tổng thống cùng với người dân thường đều mặc đồ trung sơn, họ đứng cùng nhau thì thể nào phân biệt được, không có lễ thì thiên hạ đại loạn, trật tự xã hội cũng không còn, điều này trước đây tuyệt đối không được. Chúng ta sinh ra trong thời đại này, chúng ta hướng về xã hội xưa nhưng cũng không thể tách khỏi xã hội hiện đại, tuy người khác không nói đến nhưng trong lòng chúng ta thì đều minh bạch.
 Thiên địa quỷ thần có hay không? Khẳng định là có. Có, vậy họ ở chỗ nào? Tuy mắt chúng ta không nhìn thấy, tai không nghe thấy, thân thể không tiếp xúc được; nhưng không thể nói thân thể chúng ta không tiếp xúc được thì cho rằng họ không tồn tại. Huống gì trong lịch sử Trung Quốc, cảm ứng của quỷ thần được ghi chép lại rất nhiều, hiện tại, chúng ta thường xem thấy trên tin tức, tạp chí, báo chương đều có một số báo cáo. Những báo cáo đó đương nhiên là có thật, nhưng có rất nhiều người không tin. Điều này cũng khó trách, nếu như không phải là tận mắt chứng kiến, mà nghe người khác nói thì đều không đáng tin.
 Lúc mới học Phật, khi đó tôi hai mươi mấy tuổi. Lão cư sĩ Chu Kính Trụ, đây là một vị trưởng bối vô cùng yêu thương bảo hộ tôi, chuyện kể của ông rất nhiều, đều là việc mà ông đích thân trải qua, thường hay kể cho tôi nghe. Chúng tôi cũng rất hoan hỷ nghe ông kể chuyện, bởi vì những chuyện này đều do đích thân ông trải nghiệm, nên là thật chứ không phải giả. Ông cũng không bịa ra chuyện để lừa chúng tôi. Chúng tôi hỏi nguyên nhân lão nhân gia học Phật.
 Bởi vì ông học tài chính, trong thời kì kháng chiến, ông là Trưởng Cục Thuế vụ ở Tứ Xuyên, là người quản lí về thuế. Sau khi kháng chiến thắng lợi, ông ở Chiết Giang, ông làm thủ quỷ tài chính Chiết Giang. Trước kháng chiến, ông từng làm Tổng Tài của một ngân hàng ở Tô Châu.
 Tôi hướng đến ông thỉnh giáo nguyên nhân ông học Phật, ông nói với tôi, ông nói nhân duyên học Phật là vào thời gian kháng chiến. Ông ở tại Trùng Khánh, buổi tối một ngày nọ, ông cùng với vài người bạn đánh mạt chược, đây là việc thường tình, thường thường là hơn 2 giờ khuya mới giải tán. Giải tán thì ai về nhà nấy, thời đó tuy rằng địa vị của ông cao như vậy, nhưng vẫn không có phương tiện giao thông, trở về vẫn là đi bộ. Không như bây giờ, đều có xe rồi, lúc đó vẫn là đi bộ. Hơn nữa, đèn đường rất tối, người hiện tại rất khó thể hội được, nếu như là người trong độ tuổi của tôi, thì bạn có thể biết. Đèn đường, rất xa mới có một cái cột đèn, hơn nữa đèn đường lọai bóng của nó đại khái là loại 40, được treo với cự li rất cao, rất xa, chân thật là nhìn như có như không. Sau khi trời tối đen ông mới ra về, khi quay về thì ông phải đi rất xa, đại khái là phải đi hết bốn, năm mươi phút mới về được đến nhà. Trên đường đi, phía trước ông có một người, cũng đi cùng đường với ông vào thời điểm đó, đi ngay phía trước ông, ban đầu ông cũng không để ý đến. Đi được gần nửa giờ đồng hồ, ông đột nhiên nghĩ đến, xem thấy phía trước là một người con gái, ông nghĩ: một cô gái đơn độc, làm sao lại ra ngoài vào lúc nửa đêm như vậy? Ông nghĩ như vậy. Tôi nghe ông kể mà dựng cả tóc gáy. Ông quan sát kĩ người phía trước thì thấy cô ta có thân trên mà không có thân dưới, ông chết điếng cả người, nhìn lại người phía trước không còn nữa, không có nữa. Ông cùng với người này đi chung, đi hết nửa giờ đồng hồ, tuyệt đối không phải là hoa mắt. Ông thật sự là đã nhìn thấy ma rồi. Ông nói từ cái ngày ấy, ông mới chân thật tin Phật.
 Sau khi học Phật, ông đối với con ma ấy vô cùng cảm kích. Nếu như không phải đích thân ông nhìn thấy, ông nói cả đời ông vĩnh viễn cũng không thể tin.
 Nhạc phụ của ông là Chương Thái Viêm, rất có địa vị trong giới học thuật Trung Quốc. Nhạc phụ của ông là một tín đồ Phật giáo kiền thành, chuyện kể cũng rất nhiều, thường thường kể cho ông nghe, ông nghe xong nửa tin nửa ngờ, mãi cho đến khi bản thân ông gặp phải sự việc như thế ông mới tin. Cái việc này là có thật, chuyện của ông rất nhiều. Nếu như tôi nói phải mất hết vài giờ đồng hồ, vô cùng thú vị, quyết định không phải là hư vọng.  
 Bản thân tôi tuy cả đời chưa từng gặp qua ma quỷ, nhưng tôi thực sự đã từng gặp hồ li tinh được nói đến trong tiểu thuyết “Liêu trai chí dị”. Đại khái là khi tôi năm, sáu mươi tuổi, tôi xác thực là đã gặp phải hồ li tinh, cho nên tôi tin điều đó là thật chứ không phải giả.
 Con hồ li tinh đó mà tôi gặp cũng biến thành hình người, nhưng là nam chứ không phải nữ, rất nhiều người đã nhìn thấy qua, ở tại khe núi Hồ Nam. Sau khi kháng chiến thắng lợi, tôi về lại quê hương, một người bà con ở quê tôi gặp phải một sự việc rất kì lạ. Gạo của quê tôi làm ra, đều thu lại vận chuyển đến Vu Hồ, Nam Kinh để bán. Người bà con của tôi, ông ấy có một thuyền gạo, ông dùng bao bố đóng gạo lại thành bao rồi mang lên thuyền. Trong khi đóng hàng, xem thấy có một con chồn vàng từ ngòai nhảy vào trong thuyền. Công nhân trên thuyền liền đi tìm, tìm rất lâu mà không thấy. Tìm không thấy nên mọi người cho rằng mình bị hoa mắt, nên cũng coi như không có gì. Thuyền gạo này được vận chuyển đến Nam Kinh, sau khi đến Nam Kinh, lúc đưa hàng hóa xuống, bổng nhiên thấy trong túi gạo, một hạt gạo cũng không có, cả thuyền gạo đều không thấy. Mọi người hiểt được, đây là do con chồn vàng tác quái. Nhìn thấy mọi thứ là thật chứ không phải giả, cả thuyền gạo đều không thấy. Cho nên chỉ lưu lại Nam Kinh vài ngày, rồi quay về. Sau khi về nhà, gạo của ông đều ở trong kho. Không biết làm cách nào để trừng phạt con chồn vàng đó, nó đã trêu đùa ông. Tuy không có tổn thất nhưng một thuyền gạo đều mang cả về nhà, đây là việc có thật.
 
Cho nên, thế gian rộng lớn không điều kì quái gì không có, không thể nói bản thân tôi không thấy thì không tin, sự việc mà đích thân chúng tôi nhìn thấy thì quá ít. Những sự việc này ở Hương Cảng cũng rất nhiều, ở Trung Quốc đại lục thì càng nhiều, ở ngoại quốc cũng rất nhiều.
  Người tôi gặp được rất nhiều, bởi vì thính chúng nghe tôi giảng kinh rất đông, họ thường đem những sự việc mà họ đích thân gặp phải kể cho tôi nghe. Cho nên, thiên địa quỷ thần không thể xem thường, chúng ta lừa dối người thì dễ, nhưng lừa dối thiên địa quỷ thần thì rất khó rất khó.
 [Ngô tuy quá tại ẩn vi], lỗi lầm của chúng ta vô cùng bí mật, vô cùng vi tế, người khác nhìn không thấy được, nhưng “thiên địa quỷ thần thực giám lâm chi”. “Giám” là tấm gương, chính là tấm gương chiếu rõ ràng, chiếu được hết. “Trọng tắc giáng nhi bách ương-nặng thì giáng tram điều tai ương”, nếu như bạn tạo ác nghiệp nặng, bạn nhất định gặp phải những tai nạn không như ý; “khinh tắc tổn kỳ hiện phúc”, tội nhẹ thì phước báu hiện tại của bạn bị tổn giảm. Bạn phải hiểu được đạo lí này, bạn phải lí giải được chân tướng sự thật này, làm sao có thể không lo sợ chứ?
 Xin xem tiếp kinh văn phía sau:
 [Bất duy thị dã], không những chỉ như vậy.
 [Nhàn cư chi địa, chỉ thị chiêu nhiên, ngô tuy yểm chi thậm mật, văn chi thậm xảo, nhi phế can tảo lộ, chung nan tự khi, bị nhân thứ phá, bất trị nhất văn hĩ, ô đắc bất lẫm lẫm?]
  (Tạm dịch: Những nơi vắng vẻ chỉ riêng mình ta cũng có quỷ thần giám sát, dù ta che đậy khéo léo, thần minh cũng đã sớm thấu rõ đến tận gan phổi của ta, vậy nên khó có thể tự lừa dối mình mãi được; một khi bị người phát hiện thì chẳng còn giá trị gì nữa. Vậy há không nên e dè, úy kính hay sao?)
 Phía trước đã nói thiên địa quỷ thần xem thấy chúng ta rất rõ ràng, đoạn này là nói hòan cảnh hiện tại cư trú của chúng ta, cái gọi là “mười mắt nhìn thấy, mười bàn tay chỉ”. Đặc biệt là xã hội đô thị hiện nay, nhân khẩu đông đúc, nhất cử nhất động của chúng ta đều có rất nhiều người nhìn thấy. Chúng ta giấu giếm bí mật, “văn chi thậm xảo”, văn là ngụy trang, bạn ngụy trang được rất khéo, nhưng “phế can tảo lộ chung nan tự khi” – trong tâm bạn sớm đã không thể tự lừa dối mình.
 Phía trước đã nói qua với chư vị, người có học vấn, có đạo đức vừa nhìn là đã rõ ràng. Khi bạn bị người nhìn thấu thì bạn chẳng còn giá trị gì nữa. Nghĩ đến chỗ này, sao có thể không lo sợ chứ? “Lẫm lẫm” là là dáng vẻ lo lắng, sợ sệt. Đây chính là nói người khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, cần phải có lương tâm, có thiên lương, cần phải biết sợ chế tài của dư luận. Chúng ta làm thiện không muốn để người khác biết. Nhưng điều ác mà chúng ta làm, cần phải hi vọng người khác biết; khi bị người khác chỉ trích thì điều ác của chúng ta cũng đã trả được rồi, đây là một việc tốt. Anh ta chỉ trích ta, ta chân thật có sai, ta phải tiếp nhận, ta phải hối cải; anh ta chỉ ra rồi thì ta không còn lỗi sai đó nữa, ta cũng rất hoan hỷ. Nếu như ta bị oan uổng, bị oan là cách tốt nhất để tiêu tai, tiêu nghiệp chướng.
  Cho nên bất luận người khác chỉ trích là đúng hay sai, chúng ta đều phải có tâm cảm ơn. Cổ nhân thường nói: có thì sửa đổi, không có thì tránh. Phê bình của người khác đối với ta, đặc biệt là những phê bình ác ý, nếu ta có thì phải khẩn thiết sửa sai tự làm mới, nếu ta không có thì phải gia tăng cảnh giác, quyết định không phạm phải sai lầm như vậy, thành tựu đức hạnh cho bản thân.
  Cho nên, một người chân thật có tu dưỡng, chân chánh hiểu được đọan ác tu thiện, tích công lũy đức, cùng với người bình thường quyết định là không giống nhau. Hơn nữa trong mỗi niệm đều là nghĩ đến điểm tốt của người khác, tuyệt đối không đem điều không tốt của người khác để trong tâm, đó là việc làm không đáng nhất. Tại sao? Tâm của chúng ta thuần thiện, đem điều bất thiện của người khác để trong tâm, cái tâm thuần thiện của mình phá hoại, bạn nói oan uổng biết bao? Chúng ta xem thấy trong xã hội, người ngu si như thế không phải là con số ít. Nếu người khác tán thán, cung kính chúng ta, chúng ta phải tĩnh tâm mà xuy xét: “họ tán thán ta, cung kính ta, ta có cái đức hạnh đó hay không? Ta có thật sự làm được điều tốt đó hay không?” Nếu như chân thật là có thì chúng ta phải khiêm tốn, càng phải nỗ lực hơn. Nếu như họ tán thán vượt quá sự thật, chúng ta phải sinh tâm hổ thẹn, nhất định phải hướng đến họ sám hối rằng: “Tôi nào có làm được việc tốt như thế, bạn nói quá lời rồi.” Bản thân ta phải nỗ lực cố gắng mà làm, hi vọng không phụ lòng tán thán của họ. Bản thân tu dưỡng như vậy, thì đức hạnh mới có thể thành tựu. Trên quả báo, hung tai mới có thể miễn trừ, phước thiện mới đến, đây là đạo lí nhất định. Chúng ta cần phải hiểu rõ, cần phải nhận chân nỗ lực tu học, phải có tâm hổ thẹn, phải nỗ lực nhận rõ vấn đề.
 Hôm nay chúng ta chỉ giảng đến đây thôi. A MI ĐÀ PHẬT

 


Ngủ rồi be-buti

Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 6)
2013-06-05 13:58:02
(PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 17/04/2001
 Chư vị đồng tu, xin chào mọi người!
Lần trước chúng ta đã giảng đến Liễu Phàm tiên sinh được Khổng tiên sinh đóan mệnh cho ông 53 tuổi sẽ có tai nạn. Nhưng đến năm đó ông vẫn bình an trôi qua. Ông tổng kết cho con trai rằng: “phàm nói họa phước là tự mình cầu thì đó là giáo huấn của Thánh Hiền; nếu nói họa phước là sự chủ định trong mạng, đó là lí luận của người thế tục, không thể tin tưởng được”. Tiếp theo ông dạy con ông:
[Nhữ chi mệnh vị tri nhược hà], mạng của con không biết rốt cuộc sẽ ra sao?
[Tức mệnh đương vinh hiển, thường tác lạc mịch tưởng], (mạng mình gặp lúc vinh hiển, thường phải nghĩ tới lúc còn hàn vi).
Cho dù trong mạng con có phú quý vinh hoa nhưng bản thân không được đắc ý.
[Tức thời đương thuận lợi, thường tác phất nghịch ý], (gặp thuận lợi phải thường nghĩ tới lúc nghịch cảnh khó khăn).
Cho dù sự việc tuy rất thuận lợi nhưng thường nghĩ làm chưa vừa lòng.
[Tức nhãn tiền túc thực, thường tác bần cũ tưởng, tức tương nhân ái kính, thường tác khủng cụ tưởng, tức gia thế vọng trọng, thường tác ti hạ tưởng, tức học vấn pha ưu, thường tác thiển lậu tưởng.]
 (Cho dù trước mắt sung túc, phải thường nghĩ tới lúc nghèo nàn; khi được người kính nể, phải thường có ý e dè sợ sệt; khi gia thế được người trọng vọng, phải thường nghĩ tới lúc mình còn thấp kém; khi học vấn cao thâm, phải nghĩ thường tới lúc mình còn nông cạn, thô thiển.).
Đây là Liễu Phàm tiên sinh dạy con ông học cách khiêm tốn. “Kinh dịch” có nói: lục hào giai cát chỉ nhất khiêm (trong sáu hào chỉ có quẻ khiêm là tốt nhất). Trong kinh Thư nói được rất hay: “mãn chiêu tổn, khiêm thọ ích” (ngã mạn thì chiêu tổn, khiêm cung thì thọ ích). Một người bất luận là ở trong hòan cảnh như thế nào, hòan cảnh tốt cũng tốt, hòan cảnh không tốt cũng tốt, đều phải khiêm tốn, ngàn vạn lần không được kiêu ngạo. Đoạn văn này ý nghĩa của nó vô cùng sâu sắc. Phía sau ông nói:
[Viễn tư dương tổ tông chi đức, cận tư cái phụ mẫu chi khiên, thượng tư báo quốc chi ân, hạ tư tạo gia chi phúc, ngoại tư tế nhân chi cấp, nội tư nhàn kỉ chi tà.] (Nhìn xa phải nghĩ đến xiển dương đức hạnh tổ tiên. Nhìn gần phải nghĩ đến che giấu lỗi lầm cha mẹ. Nhìn trên phải nghĩ đến đền ơn tổ quốc. Nhìn dưới phải nghĩ đến tạo hạnh phúc cho gia đình. Đối ngoại phải nghĩ đến giúp người lúc cần. Đối nội phải nghĩ đến ngăn chặn ý nghĩ tà xấu của chính mình).  
Sáu điều “tư” này chính là “ tư tưởng”, bạn phải thường nghĩ như vậy, sáu điều này xác thực chính là trong Phật pháp chỗ nói “chánh tư duy”. Người không thể không có suy nghĩ chính xác, tư tưởng chính xác, sáu điều này là tiêu chuẩn.
Điều đầu tiên, phải thường nghĩ đến phát dương quang đại đức hạnh của tổ tông, đây là điều căn bản. Tổ tông của chúng ta là ai? Tổ tông dân tộc chúng ta, được ghi chép trong lịch sử, từ vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thương, Văn, Vũ, Chu công, đây là tổ tiên của dân tộc Trung Quốc chúng ta, tổ tiên của mỗi gia đình chúng ta, đều là kế thừa đạo thống của cổ thánh tiên hiền mà có, câu này có nghĩa, dùng lời hiện tại mà nói, chúng ta phải thường nghĩ đến phát dương quang đại văn hóa Trung Hoa. Nền văn hóa của chúng ta có lịch sử vô cùng dài lâu, nền văn hóa này coi trọng sự đối xử hòa hài giữa người với người, giữa người với tự nhiên, giữa người với thiên địa quỷ thần, tất cả đều phải tôn trọng lẫn nhau, kính yêu lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau. Phải thường suy nghĩ làm thế nào để đức hạnh của tổ tiên thực sự đi vào trong đời sống xã hội hiện đại, thực sự đem lại lợi ích cho xã hội đại chúng hiện tiền.
[Cận tư cái phụ mẫu chi khiên], đây chính là nói đến cách cư xử với những người ở bên cạnh mình. Cổ thánh tiên hiền Trung Quốc thường dạy chúng ta rằng: “điều xấu trong nhà không được nói ra bên ngoài”. Tại sao vậy? Trong gia đình có những việc không hay cũng là điều khó tránh, nếu như thường nói cho người ngoài nghe, người ngoài đối với gia đình bạn tự nhiên có tâm coi thường, thậm chí là dẫn những âm mưu xấu, muốn phá hoại sự hòa hài trong gia đình bạn, nên ngạn ngữ có nói: “họa từ khẩu xuất-hoạ từ miệng ra”. Gia đình như vậy, xã hội cũng thế. Ngày nay xã hội tại sao lại động loạn? Nguyên nhân này rốt cuộc do đâu?
 Chúng ta hãy cẩn thận mà suy xét, chúng ta là đi ngược lại giáo huấn của cổ thánh tiên hiền. Người xưa nói: không nghe lời cha ông, thiệt thòi ngay trước mắt; trước mắt chúng ta phải chịu thiệt thòi lớn rồi! “Lời lão nhân” là cái gì? Người xưa dạy chúng ta đối với xã hội, đối với đại chúng phải làm được tương ưng với câu “ẩn ác dương thiện”. Nhìn thấy chỗ không thiện của người khác thì không nên nói ra, cũng tuyệt đối không tuyên dương, càng không đem chúng để vào tâm; nhìn thấy chỗ thiện của người khác, chúng ta phải tán dương. Phương pháp này sẽ khiến cho người bất thiện tự cảm thấy hỗ thẹn: mình làm điều ác mà người khác đều có thể bao dung, đều có thể tha thứ cho mình; còn người thiện thì nghĩ mình làm một chút việc thiện như vậy mà mọi người biểu dương mình, tán thán mình. Điều đó có thể khởi phát tâm hổ thẹn của đại chúng, khởi phát tâm sám hối của đại chúng, như vậy xã hội mới có thể an định, thế giới mới có thể hòa bình.
Hiện tại, chúng ta xem thấy ở trong nước, ngoài nước tương phản lại với nguyên tắc đó. Xã hội hiện tại đều là ẩn thiện dương ác, việc ác thì đặc biệt tăng cường báo cáo, còn việc thiện thì hòan tòan không nói đến. Cách làm này khiến cho người hành thiện bị thoái tâm, ngược lại đối với kẻ tạo ác lại cổ vũ lớn lao; khiến xã hội động loạn, thế cục bất an, kỷ lai hữu tự. Đây là nói đến gia đình, cha mẹ, anh em có lỗi sai đều phải che dấu. Thật ra, việc che dấu đó cũng là không đúng mà chúng ta cần phải nhắc nhở, khuyên bảo cha mẹ, anh em cải ác hướng thiện. Việc khuyến đạo này diễn ra khi chỉ có người trong gia đình, quyết không phải trong trường hợp có người ngoài; chỉ cần có người ngòai, chúng ta quyết định phải là ẩn ác dương thiện. Phải ghi nhớ lời dạy này của người xưa, làm như vậy mới đúng.
 [Thượng tư báo quốc chi ân], phải thường nghĩ đến báo ân. Phật dạy đệ tử “thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”, đệ tử Phật thường niệm kệ hồi hướng này, tuy nhiên chỉ là miệng niệm, không chân thật làm được. Cho nên tôi thường nói, nếu không làm được lời giáo huấn của Phật, chúng ta lấy cái gì để hồi hướng chứ? Chỉ là hồi hướng trên miệng, mà không có đức hạnh chân thật để hồi hướng, đây là dối mình dối người, như vậy thì là sai rồi. Tứ trọng ân, thứ nhất là ân cha mẹ, thứ hai là ân lão sư, thứ ba là ân quốc gia, thứ tư là ân chúng sanh. Chúng ta sinh ra ở thế gian này, y phục ẩm thực đều dựa vào đại chúng, mỗi người đều không thể độc lập thoát li khỏi quần chúng. Giữa người và người đều tồn tại ân đức, cho nên chúng ta phải thường suy nghĩ làm sao để báo ân? Phải dùng trí huệ của bản thân để cống hiến, dùng đức năng của bản thân để phụng sự, vì quốc gia, vì xã hội phục vụ, đây mới là hành vi báo ân cụ thể.
[Hạ tư tạo gia chi phúc] (dưới phải tạo phúc cho gia đình), đây chính là điều mà nhà Nho thường dạy: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. “Tạo gia chi phúc”, đây là nói tề gia, gia đình cần phải có trật tự? Tiêu chuẩn của trật tự là như thế nào? Tiêu chuẩn chính là luân lí, luân lí là trật tự xã hội. Chúng ta biết, một xã hội có trật tự thì xã hội đó an định; quốc gia có trật tự thì quốc gia đó giàu mạnh; gia đình có trật tự thì gia đình đó hưng vượng. Cha từ con hiếu, anh thương em kính, chồng nói vợ nghe, đây là trật tự tự nhiên của việc tề gia, hòan tòan không phải là do Khổng lão phu tử chế định ra, không phải cổ thánh tiên hiền chế định, nghĩ như vậy thì sai rồi. Nếu như do người chế định, tôi làm sao tán đồng họ, hầu hết mọi người sẽ nghĩ mình “bị người khác xỏ mũi”? Không phải, Khổng lão phu tử tuyệt đối không bao giờ xỏ mũi người khác, Thích Ca Mâu Ni Phật cũng không làm khó người. Những điều họ nói đều là đạo lí tự nhiên. Dùng thuật ngữ nhà Phật mà nói chính là từ trong tự tánh, từ trong chân tâm của bạn, từ trong bổn tính của bạn, là đức năng vốn có, là trật tự vốn có, là thiên nhiên, là tự nhiên, quyết không phải do con người làm ra. Chúng ta phải hiểu rõ cái đạo lí này, sau đó mới có thể chân chánh chịu làm theo giáo huấn của cổ thánh tiên hiền.
Họ tại sao được xưng là cổ thánh tiên hiền, nguyên nhân là tại chỗ nào? Họ không phải là dạy chúng ta vĩnh viễn phải tin theo họ. Không phải! Chúng ta nghe giáo huấn của họ là ở giai đoạn sơ học, đến khi đạt đến một trình độ nhất định, cảnh giới của bạn được nâng cao. “Cho nên Phật nói: nhất thiết chúng sanh giai đương tác phật-tất cả chúng sanh đều làm Phật”, mọi người là bình đẳng. Trong kinh Viên Giác, kinh Hoa Nghiêm giảng được rất thấu triệt, kinh nói: “nhất thiết chúng sanh bổn lai thành phật”, so với “ưng đương thành phật” thì càng thân cận hơn. Cho nên phật pháp là bình đẳng, cái mà Nho gia nói cũng chính là bình đẳng, cái Đạo gia nói cũng vẫn chính là bình đẳng. Giáo huấn của Đại Thánh Đại Hiền, cổ kim trung ngoại, không một thứ gì không phải là thanh tịnh bình đẳng, cái đạo lí này chúng ta cần phải tỉ mỉ thể hội, phải thâm nhập, mới có thể đạt được thọ dụng chân thật.
 
Hai câu phía sau “ngoại tư tế nhân chi cấp”, đối ngoại thì phải thường nghĩ đến những chúng sanh khổ nạn quá nhiều, đặc biệt là trong cái thời đại hiện nay, thường thường nghĩ đến những người khổ nạn, chúng ta làm sao giúp đỡ họ. Bản thân trên phương diện sinh hoạt phải biết tiết kiệm: “nếu ta có thể giảm một đồng, ta có thể giúp đỡ thêm cho người khác một đồng; trong sinh hoạt hằng ngày, nếu ta có thể giảm đi hai đồng, thì ta có thể giúp người khác hai đồng”. Chúng ta phải có cái tâm như vậy, có cái nguyện như vậy. Gặp người khổ nạn, phải nhanh chóng, phải toàn tâm tòan lực mà đi tiếp trợ họ.
[Nội tư nhàn kỉ chi tà], đối với bản thân, đối nội, “nhàn” là ngăn ngừa, chính là nhất định hiểu được ngăn ngừa tà tri tà kiến. Đặc biệt là trong thời đại này, thời đại mà mọi người đều ủng hộ mở cửa tự do dân chủ, đây là xu hướng của thế giới, có thể hiểu được. Quá khứ, đại khái là mười năm trước, tôi đến Tân Gia Ba giảng kinh, thời gian đó tôi ở Tân Gia Ba không lâu, mỗi năm chỉ đến đó một lần, ở đó giảng một tháng. Pháp sư Diễn Bồi, ông là một người bạn cũ của tôi, có một ngày ông mời tôi ăn cơm, ông hỏi tôi, ông nói: “Tịnh Không pháp sư, ông tán thành chế độ quân chủ độc tài hay là tán thành dân chủ?” Tôi nói: “Tôi tán thành quân chủ”. Ông nói: “Ngài lạc hậu rồi”, tôi nói: “tôi không lạc hậu”. Ông hỏi tôi tại sao? Tôi nói: Thời đại quân chủ, Hoàng đế, ngài nói ông ta có tâm riêng tư cũng được, chúng ta không bàn cãi về điều này, ông ta có tâm riêng tư cũng tốt, bởi vì ông ta hi vọng con cháu của mình đều làm hoàng đế, đời đời truyền ngôi lại cho nhau, vì vậy, hoàng đế đối với việc giáo dục người kế thừa vô cùng nghiêm khắc. Đây là một việc tốt. Nếu như người kế thừa ngôi báu làm những việc sai trái, thì nhân dân khởi nghĩa phản kháng, chính quyền của ông ta bị lật đổ. Cho nên chúng tôi từ trên lịch sử Trung Quốc xem thấy, Hoàng đế khai quốc bồi dưỡng người kế thừa là dùng tâm huyết lớn nhất, họ đi mời nhân tài ưu tú nhất của quốc gia, những người có học vấn, có đức hạnh để dạy dỗ Thái tử, hi vọng tương lai Thái tử trở thành một thánh vương, một hiền vương. Ông có trách nhiệm, ông muốn ngôi vị được trường cữu. Còn chế độ chính trị dân chủ không chịu trách nhiệm cho đời sau, người tại vị là do được bầu chọn lên; trong vòng ba bốn năm thì miễn nhiệm, nên bản thân ông ta không ảnh hưởng gì, ông ta cũng không nghĩ mình sẽ tại vị lâu dài.
 Cho nên hoàng đế thời xưa thường nghĩ đến lỗi lầm của mình, làm sao để sửa đổi làm mới, nếu như họ nghe được những kiến nghị của quan đại thần sẽ rất vui mừng. Khi đọc được những quyển sách như vậy, tôi vô cùng tôn kính họ. Cho nên tôi một đời tán thành quân chủ chuyên chế, không tán thành dân chủ.    
Cách mạng Trung Quốc, tôi vô cùng bôi phục tiên sinh Tôn Trung Sơn, tư tưởng của ông xác thực là sự tập hợp tinh hoa của phương Đông và phương Tây. Tuy rằng, ông lật đổ chế độ chuyên chế, nhưng ông chủ trương chuyên chính nhất Đảng, đây chính là sự kết hợp tinh hoa của văn hóa phương Đông và phương Tây. Ông biết được ưu điểm của chế độ quân chủ, cũng biết được khuyết điểm của nó; ông biết được ưu điểm của dân chủ phương tây, cũng biết được khuyết điểm của dân chủ, cho nên ông mới nghĩ ra một Đảng chuyên chính, đây là kiến giải vô cùng cao minh.
Bởi vì thời quá khứ, hoàng đế luôn là người trong nhà, chính quyền là thuộc về một gia tộc, đây là khuyết điểm của chế độ quân chủ. Còn đối với chuyên chính nhất đảng, cái đảng này không phải là của một gia tộc, mà là sự tập hợp tinh hoa của toàn quốc; những người có đạo đức, có học vấn sẽ tập hợp lại thành một chính đảng để quản lí đất nước. Trong đảng có cả dân chủ lẫn chuyên chế chịu trách nhiệm. Trong việc chịu trách nhiệm này, điều quan trọng nhất chính là phải đề xướng chánh tri chánh kiến, ngăn chặn tà tri tà kiến. Nhất định là phải đề xướng giáo dục luân lí đạo đức, mới có thể ngăn ngừa tà tri tà kiến; nếu như không có chánh tri chánh kiến, quyết định không thể ngăn chặn được tà tri tà kiến. Ngày nay rất nhiều nơi trên thế giới, tà tri tà kiến đã xâm nhập vào xã hội. Điều này thì không được rồi! Đây là căn nguyên của xã hội động loạn, là nguồn gốc của tai họa. Trong ba năm gần đây, tôi ở tại Tân Gia Ba. Tôi đối với chính phủ Tân Gia Ba rất bội phục, họ là một chính phủ chịu trách nhiệm đối với nhân dân. Lúc mới đến Tân Gia Ba giảng kinh, tôi chịu sự giám sát của họ rất nghiêm khắc. Kinh điển chúng tôi giảng phải báo cáo với họ, nội dung giảng cũng phải báo cáo; kinh điển phải được họ kiểm tra, họ đồng ý, chúng tôi mới có thể giảng. Nghe nói trong khi chúng tôi giảng kinh, mỗi một giảng đường đều có người mặc quân phục ở tại đó giám thính. Nếu như cái bạn nói là tà tri tà kiến, phá hoại đoàn kết xã hội, phá hoại đoàn kết chủng tộc, tạo ra tin đồn thì ngay lập tức bị cấm chỉ. Đây là một việc tốt!
Hiện tại khi nói đến một xã hội dân chủ, người ta nói rằng: “cái xã hội này ngôn luận không tự do, xuất bản không tự do”. Chư vị phải hiểu rằng, nếu ngôn luận tự do, xuất bản tự do, quyết định tạo thành xã hội động loạn, đó chính là tà tri tà kiến không có người ngăn ngừa. Dân tộc Trung Quốc có thể kéo dài đến ngày nay, vẫn không bị diệt vong, tôi cảm giác được đó là nhờ lịch đại đế vương đã bảo hộ chánh tri chánh kiến của nhân dân, công đức này vô cùng lớn! Ngăn ngừa tà tri tà kiến trong xã hội không cho lan tràn, điều này hiện tại người nhìn ra được càng ngày càng ít.
Do đó tôi đã phân tích cho pháp sư Diễn Bồi nghe, pháp sư Diễn Bồi nghe đến cuối cũng, ông không thể không gật đầu. Ở đây đề xuất ra cương lĩnh của sáu điều tư duy, đây là tư duy chánh tri chánh kiến. Phía sau, tiên sinh Viên Liễu Phàm nói tiếp:
[Vụ yếu nhật nhật tri phi, nhật nhật cải quá. Nhất nhật tri vô phi, tức nhất nhật an ư tự thị, nhất nhật vô quá khả cải, tức nhất nhật vô bộ khả tiến]. (Ngày ngày cần phải xét lỗi, ngày ngày cải sửa. Một ngày không nhìn ra sai trái của mình, thì ngày đó an nhiên tự thị, tự nghĩ rằng mình đúng. Một ngày không có lỗi để sửa thì ngày đó không có tiến bộ nào cả.)
Câu nói này đối với chúng ta mà nói, quan trọng hơn bất cứ thứ gì khác. Trong nhà Phật thường nói “khai ngộ”, có người hỏi tôi: Cái gì gọi là khai ngộ? Tôi trả lời anh ta: khi bạn biết được quá khứ của mình thì bạn đã khai ngộ rồi. Bạn có thể đem những lỗi lầm trong quá khứ cải chính sửa đổi, cái này gọi là tu hành. “Vụ yếu” là tất yếu phải, không như thế thì không được. Ngày ngày chúng ta phải kiểm điểm, phải phản tỉnh, tìm ra những lỗi lầm của mình. Công khóa sớm tối là quan trọng nhất đối với đồng tu sơ học, công khóa sớm tối không phải là niệm cho Phật Bồ Tát nghe, không coi trọng ở hình thức. Khóa sáng là dụng ý đề tỉnh bản thân, hi vọng bản thân ngày hôm nay xử sự đối người tiếp vật không quên đi lời giáo huấn của Phật Bồ Tát, dụng ý của khóa sáng là ở chỗ này. Khóa tối là phản tỉnh, phản tỉnh bản thân ngày hôm nay đối người, đối sự, đối vật, có chỗ nào làm đúng, làm được chính xác; có chỗ nào làm sai? Khóa tối là phản tỉnh. Làm đúng rồi, thì ngày mai tiếp tục bảo trì; nếu như làm sai thì ngày mai nhất định phải sửa đổi, công khóa sáng tối như vậy mới có công đức; quyết không phải gõ mõ tụng kinh, niệm cho Phật Bồ tát nghe, sáng sớm niệm một biến, tối đến niệm một biến, cùng với tư tưởng, ngôn hành của bản thân tơ hào không can hệ, công khóa sớm tối như vậy, không những không có công đức, mà còn tạo tội nghiệp, tạo tội nghiệp gì vậy? Phật Bồ tát không ở trước mặt bạn, bạn là đối trước một pho tượng hoặc là một bức vẽ; đối trước pho tượng, tranh vẽ bạn nhẫn tâm buổi sáng lừa dối một lần, buổi tối lại lừa dối lần nữa, cái tâm này của bạn quá tàn nhẫn rồi, đây không phải là tội lỗi lớn sao? Ngày nay người học Phật nhiều, nhưng người chân chính hiểu được đạo lí Phật pháp thì không nhiều. Tôi đặc biệt hi vọng các bạn đồng tu phải hiểu rõ tinh thần, ý nghĩa của công khóa sớm tối, cũng chính là ở đây nói “ngày ngày tìm lỗi, ngày ngày sửa lỗi”. Một ngày không nhận biết được lỗi lầm của mình, bạn chính là đang “an ư tự thị”, tự cho rằng mình đúng, đây là lỗi lầm lớn. Một ngày nếu bạn không thấy lỗi để sửa, bạn không cách nào có tiến bộ. Không tiến bộ, câu này đồng nghĩa với bạn quyết định sẽ thoái chuyển.
[Thiên hạ thông minh tuấn tú bất thiểu], (Trong thiên hạ không thiếu gì người thông minh tài trí).
Mấy câu sau là Liễu phàm tiên sinh cảm thán. Có người tài năng thông minh tuấn tú hay không? Khẳng định là có!
[Sở dĩ đức bất gia tu, nghiệp bất gia quảng giả, chỉ vi nhân tuần nhị tự, đam các nhất sanh].
Đây chính là muốn cảnh tỉnh chúng ta. Tại sao những người này ngày ngày không trau dồi đạo đức? Đức nghiệp tại sao không ngày ngày mở rộng? Đều vì hai chữ “nhân tuần” làm hại. Nhân tuần là ý nghĩa gì? Chính là hiện tại nói: làm qua loa, làm cho có lệ, không hết lòng nỗ lực. Trên công việc và đạo đức, đều không nỗ lực mà làm. Cuối cùng:
 [Vân Cốc thiền sư sở thọ lập mạng chi thuyết, nãi chí tinh, chí thúy, chí chân, chí chính, chi lí, kỳ thục ngoạn nhi miễn hành chi, vô tự khóang dã.] (Thuyết lập mạng của thiền sư Vân Cốc là một lý lẽ tinh túy nhất, thâm thuý nhất, chân thực nhất, đúng đắn nhất mà con phải gắng sức nghiền ngẫm cho kỹ rồi hết lòng áp dụng trong đời sống, đừng để thì giờ luống uổng trôi qua).
Đây là kết luận cuối cùng của thiên này. Liễu Phàm đặc biệt nhấn mạnh đến thuyết “học lập mệnh” mà thiền sư Vân Cốc đã dạy cho ông: đây là học thuyết tinh túy đến cực điểm, “chí tinh”, “chí thúy”. “Thúy” là thâm sâu, sâu đến cùng cực; “chí chân, chí lí”, chân là quyết định không hư vọng, chính là quyết định không có tơ hào tà quấy. Bản thân ông một đời nỗ lực tu học, cải tạo được vận mạng. Trong mạng ông không có công danh, ông đắc được công danh; trong mạng ông không có con trai, ông có được con trai; trong mạng chỉ sống đến 53 tuổi, ông sống đến 74 tuổi, sống lâu hơn 21 năm. Đây chính là chứng minh cho giáo huấn của Vân Cốc thiền sư là chính xác, không có sai lầm.
Những bài văn này của Liễu Phàm tiên sinh vốn là để dạy cho con cháu đời sau của ông. Đời sau của Liễu Phàm tiên sinh cũng rất tốt, biết được những phương pháp cùng lí luận quý giá này, họ không ích kỷ, mà công bố cho đại chúng được biết, hi vọng đại chúng trong xã hội đều hiểu rõ cách học lập mệnh, đều có thể cải tạo số mạng. Chúng ta ở tại địa phương này, quốc gia này, cho đến mở rộng ra toàn thế giới, người người đều có thể y cứ theo giáo huấn này mà tu học thì xã hội an định, thế giới hòa bình, nhân dân trên toàn thế giới được hạnh phúc. Đây là tâm lượng của Cổ Thánh Tiên Hiền Trung Quốc chúng ta, là đức hạnh của họ. Thiên này chúng ta giới thiệu đến đây.
Tiếp theo chúng ta xem thiên thứ hai. Thiên thứ hai là “phương pháp sửa sai”, thiên thứ ba là “phương pháp tích thiện”, hai thiên này là trọng điểm, là trọng tâm. Dùng phương pháp nhà Phật mà nói, thiên thứ nhất là tự phần, là tự văn; thiên thứ hai, thứ ba là chánh tông, một thiên sau cùng gọi là phần lưu thông. Chúng ta dùng ba phần để xem bốn thiên văn chương này, chỉ thú của văn chương trên đại thể đã rõ ràng. “Học lập mệnh” đã hiểu được rồi, minh bạch rồi, phải từ nơi đâu hạ thủ? nhất định là từ sửa sai mà hạ thủ. Người không phải sinh ra đã là thánh nhân, làm sao không có lỗi lầm? Khổng tử nói “quá tắc vật đạn cải”, ý nghĩa của câu này muốn nói, nếu có lỗi thì không sợ sửa lỗi, phải có dũng khí sửa lỗi, phải có quyết tâm, phải có nghị lực để sửa. Cho nên, ông đem đạo lí, phương pháp sửa lỗi giáo huấn con trai ông, sai sót nhỏ cũng phải sửa. Chúng ta theo truyền thống, làm việc thiếu phương pháp, bỏ qua sai lầm nhỏ. Nếu ác niệm nhỏ không coi trọng thì lỗi nhỏ sẽ được nuôi dưỡng thành tội ác lớn; ác niệm nhỏ dần dần thành ác niệm lớn, hậu quả của nó không thể tưởng tượng được. Bây giờ chúng ta xem chính văn.
Đoạn thứ nhất là nói “nguyên nhân sửa lỗi”. Tránh họa cầu phước là thường tình của con người, nhưng cát hung họa phước quyết định là có điềm trước, đây là điều chúng ta không thể không biết. Ở đầu đoạn văn, Liễu Phàm dẫn ra lời dạy của cổ nhân:
 [Xuân thu chư đại phu, kiến nhân ngôn động, ức nhi đàm kỳ họa phước, mĩ bất nghiệm giả, Tả Quốc chư kí khả quán dã]. (Các quan đại phu thời Xuân Thu hễ thấy hành động, ngôn ngữ của một người nào đó liền có thể biết họ sẽ gặp họa hay phúc, lời suy đoán của người xưa không phải là không ứng nghiệm, những việc này đều có ghi rõ trong Tả truyện hay Quốc ngữ, chúng ta có thể xem thấy được.)
 
Thời Xuân Thu, Khổng tử là sinh vào thời này. Thời này vẫn là thời Chu. Nhà Chu đã đi vào giai đoạn cuối, vương thất suy vi, rất nhiều chư hầu đối với thiên tử nhà Chu đều là bề ngoài thần phục nhưng bên trong lại âm thầm đối nghịch, mỗi chư hầu đều có tư tâm muốn phát triển thế lực của mình. Cho nên thời Xuân Thu là xã hội động loạn. Khổng tử sinh vào giai đoạn này cũng thật cảm khái vô cùng!
 
Các đại phu thời đó, đại phu là chỉ quân sư một nước, là trợ thủ của các chư hầu, đại khái cũng giống như bộ trưởng, thủ tướng của các tổ chức chính trị hiện nay, đều thuộc giai tầng của đại phu. Họ xem thấy người khác được rất nhiều; học thức, kinh nghiệm của họ rất phong phú, chỉ cần xem thấy cử chỉ của họ, nghe thấy lời nói của họ, thì có thể “ức nhi đàm kỳ họa phước”, « ức » là suy đoán, đoán được cát hung họa phước của người đó trong tương lai, họ đều có thể đoán được rất linh nghiệm. Sự việc này trong Tả Truyện, trong Quốc Ngữ; Tả Truyện và Quốc Ngữ đều là trước tác của Tả Khâu Minh; “Chư ký”, cũng như “Công Dương truyện”, “Cốc Lương truyện”, trong truyện kí rất nhiều, chúng ta có thể xem thấy một cách cụ thể chính xác. Đây là nói cát hung họa phước đều có điềm báo trước. Tiếp theo văn nói:
 [Đại đô cát hung chi triệu, manh hồ tâm nhi động hồ từ thể], (Nói chung, mọi dấu hiệu họa phước sắp xảy ra, đều xuất phát từ nội tâm rồi biểu hiện ra hành vi.)
 
Thiện niệm, ác niệm tồn tại trong tâm con người, thiện hạnh ác hạnh do bạn tạo ra đều không thể giấu người khác. Bạn có thể che giấu được kẻ ngốc nhưng bạn không thể giấu được người có học vấn, có đạo đức; đối với những người này bạn không thể qua mặt được, họ chân thật là vừa nhìn đã xuyên thấu cả phủ tạng của bạn.
 
Hiện tại thế gian vẫn còn người như vậy. Trong đời này của tôi đã gặp qua vài người tài giỏi như vậy. Ba vị thầy của tôi đều rất khó có được, tiên sinh Phương Đông Mỹ, Chương Gia đại sư, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam. Họ đều có cái năng lực này. Tiếp xúc với đại chúng, có lúc họ ngẫu nhiên nói ra: “người nào đó mệnh rất bạc, không có phước báu, không có thọ mạng”; “người nào đó tâm địa thuần phác, có tích công lũy đức, tương lai tất có phước báu”. Họ có thể xem thấy được rất rõ ràng, rất minh bạch, đối với những ai phước mỏng đều sinh lòng thương xót, dạy họ cách sửa lỗi tu thiện, cách chuyển đổi vận mệnh. Tôi lúc còn trẻ, thuộc về loại người không có phước báu, đoản mệnh. Tôi chịu học, chịu nghe lời dạy của thầy, cho nên thầy đặc biệt thương xót tôi, dạy tôi cách cải đổi vận mệnh, tự cầu đa phước. Cho nên những dự triệu đều vô cùng rõ ràng. “Manh hồ tâm nhi động hồ tứ thể”, trong tâm khởi niệm tự nhiên liền biểu hiện ra bên ngoài, chính là ngôn ngữ động tác. Làm sao để nhìn được? Ở đây có nêu ra một nguyên tắc:
 [Kỳ quá ư hậu giả thường hoạch phúc, quá ư bạc giả thường cận họa]. (Như người nhân hậu rộng lượng thường được phước. Người khắc khe hẹp hòi thường gặp họa)
 Đây là hai nguyên tắc để quán sát người: bạn xem thấy người này tâm địa thiện lương, tử tế, đãi người trọng hậu, nơi nào cũng cũng chỉ nghĩ cho người khác, người này tương lai nhất định được phước. Nếu như anh ta là người tương phản, bụng dạ hẹp hòi, khởi tâm động niệm đều vì lợi ích bản thân, làm việc đều là tổn người lợi mình, đối với bản thân không có lợi thì anh ta quyết không làm, đối xử với người khác thì rất khắc bạc, những người này không có phước báu. Mặc dù trước mắt anh ta có phước báu, phước báu đó chính là phước trong mạng anh ta sẵn có, phước trong mạng thì rất nhỏ; bởi vì anh ta có tâm bất thiện, hành vi bất thiện, phước của anh ta đã bị chiết giảm, nhưng vẫn còn dư phước. Do đây có thể biết, anh ta phải giữ tâm tốt, hành việc tốt, phước báu của anh ta mới một đời hưởng không hết, phước dư của anh ta nhất định để lại cho con cháu hưởng. Đây là chân tướng sự thật.
 [Tục nhãn đa ế, vị hữu vị định nhi bất khả trắc giả], (Mắt phàm tục không nhận rõ nên cho rằng họa phúc chưa hình thành thì không thể suy đoán trước được).
  Người thế tục không có học vấn, không có kiến thức thường thức này, nhãn quang của họ bị che phủ, người hiện tại chúng ta thường nói là bệnh “bạch chướng nội”, mắt bị bệnh màng trắng gây chướng ngại, bạn làm cách nào cũng không nhìn thấy được. Ý nói họa phước không là nhất định, hơn nữa con người không thể dự biết trước được, đây chỉ là cách nhìn của người phàm phu mà thôi. Người chân chánh có học vấn, có đức hạnh không có cái nhìn như vậy, họ nhìn được rất rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch. Tiếp theo nói:
 [Chí thành hợp thiên, phúc chi tương chí, quán kỳ thiện nhi tất tiên tri chi hĩ, họa chi tương chí, quán kỳ bất thiện nhi tất tri chi hĩ.] (Theo nguyên tắc, lòng chân thành là lòng hạp với trời. Muốn đoán phước sắp đến hay không chỉ cần biết người ấy có lòng thiện hay không. Muốn đoán họa sắp đến hay không chỉ cần biết người ấy có lòng ác hay không.)
 Đây là nói họa phước có thể thấy trước được, có thể dự đoán được tương đối chuẩn xác. Chúng ta có cái năng lực này hay không? Đáp án là khẳng định có. Trong câu nói đầu tiên ở đoạn này, ông đã nói “chí thành hợp thiên” (Một người có lòng chí thành sẽ hợp với ý trời). Chúng ta nếu muốn có năng lực này, chỉ cần đem bốn chữ trên làm cho được, “thiên” là chỉ phép tắc tự nhiên, không tăng thêm vào một tơ hào ý nghĩ nào của mình trong đó. Tơ hào ý nghĩ này chính là vọng tưởng, phân biệt mà chúng ta thường nói, tuyệt đối không được có thêm một tơ hào vọng tưởng phân biệt, thì chúng ta cũng sẽ có được năng lực này. Tâm địa chân thành, thanh tinh, bình đẳng thì năng lực này sẽ hiện tiền. Phước báu của một người muốn nhanh chóng hiện tiền, bạn chỉ cần xem anh ta “quán kỳ thiện nhi tất tri chi”, thì bạn có thể thấy được, nếu tâm của anh ta thiện, lời nói thiện, hành vi thiện, anh ta đối xử với người rất tử tế, chúng ta có thể đoán được là phước báu của anh ta sẽ đến được rất nhanh. Nếu như tư tưởng ngôn hành của anh ta là bất thiện, chúng ta liền biết được tai nạn của anh ta ngày càng kề cận rồi. Đây là phạm vi nhỏ. Còn ở phạm vi lớn là quán sát xã hội này, quán sát một gia đình, quán sát một đoàn thể, cho đến quán sát quốc gia, thế giới, không thể không chuẩn xác. Ở đây là có đạo lí, có học vấn, quyết không phải là vọng ngôn. Bản thân chúng ta cần phải hiểu được cuộc đời của chính bản thân mình, đặc biệt là cát hung họa phước xảy đến trong tương lai, nên cần phải từ chỗ này mà phản tỉnh, phải từ khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác của chúng ta mà phản tỉnh. Nếu như thuần thiện, bản thân có thể khẳng định là tiêu tai phước đến. Nếu như tâm tánh của mình bất thiện, ngôn ngữ bất thiện; ngôn là hoa ngôn xảo ngữ khi dối chúng sanh; hành vi bất thiện thì bản thân phải cảnh giác, vì họa hoạn tai nạn nhất định là đang đến gần. Từ cá nhân cho đến gia đình, đến xã hội, đến quốc gia, đến thế giới, không cái gì không như vậy cả.
 Phía sau là nói “cải quá chi cơ sở- cơ sở của việc sửa sai”.
 
[Kim dục hoạch phúc nhi viễn họa], đây là gần điều may mắn, tránh điều hung hiểm.
 [Vị luận hành thiện, tiên tu cải quá], (nói đến hành thiện, trước tiên phải sửa đổi lỗi lầm)
 Hai câu nói này rất quan trọng! Cho nên hai chương “phương pháp sửa sai” và “phương pháp tích thiện”, thứ tự sắp xếp là từ đây mà ra. Chúng ta không nói đến hành thiện tích đức trước, mà trước tiên là nói sửa sai. Tại sao? Lỗi nếu như không sửa, sửa không triệt để, sửa không đến rốt ráo, thì tuy là tu thiện, trong thiện lại xen tạp việc ác, làm thiện không tinh thuần, thì công đức của điều thiện đó cũng không đủ để hiển lộ ra. Do vậy, sửa sai là điều kiện tiên quyết của việc tích thiện.

 


Ngủ rồi y tinh

A di đà phật
Xin cảm niệm công đức be - buti.

 


Ngủ rồi be-buti

Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 4)
2013-06-03 10:44:30
(PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 16/04/2001
 
Chư vị đồng tu, xin chào mọi người!
 Hôm qua đã giảng đến chỗ Vân Cốc thiền sư dạy cho Liễu Phàm tiên sinh cách cải sửa làm mới. Đây là nói nghĩa lý chi thân vậy, bây giờ chúng ta xem tiếp:
 [Phù, huyết nhục chi thân, thượng nhiên hữu số, nghĩa lý chi thân, há bất năng cách thiên.] (Phàm phu sống bằng xương thịt lẽ dĩ nhiên bị lệ thuộc vào số mạng. Nhưng con người sống bằng nghĩa và lý không lẽ không cảm động được trời để thay đổi số mạng hay sao?).
 “Huyết nhục chi thân”, là chỉ thân chúng ta hiện tại. Cái thân thể này bởi vì không có cách gì li khai khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; cho nên đều bị chi phối bởi số mạng, có thể dùng thuật số để suy đoán cát hung họa phước của một đời. Nếu bạn muốn vượt thoát số mạng, thì bạn phải chính từ trên tâm tánh của mình mà chuyển đổi; đem hành vi, quan niệm sai trái của mình cải chính trở lại, cùng với nghĩa lý tương ưng. Đây chính là “đạo nghĩa chi thân”, là nguyện lực được nói đến trong Phật pháp. Thân máu thịt là nghiệp lực, do nghiệp lực biến hiện ra. Nếu như nguyện lực của bạn lớn hơn nghiệp lực thì trong nhà Phật gọi là thừa nguyện tái lai. Ở chỗ này chúng ta cần phải hiểu rõ, thân máu thịt thì không rời khỏi tự tư tự lợi, còn thân đạo nghĩa thì chí công vô tư, không vì lợi ích của bản thân mà khởi vọng tưởng. Sinh ra ở thế giới này, thân thể chúng ta là công cụ để tạo phước phục vụ cho xã hội, cho nhân dân, cho chúng sanh, hoàn toàn thoát khỏi nghiệp lực của bản thân. Cái thân như vậy thì gọi là thân nghĩa lý, được gọi là thừa nguyện tái lai. Chúng sanh có phước thì cái thân này thường trụ ở thế gian; chúng sanh không có phước thì thân này tự nhiên xả ly. Câu này có nghĩa, trong nhà Phật thường nói là liễu sanh tử, thoát tam giới, đây là ý nghĩa như vậy. Phía sau, Vân Cốc thiền sư liền dẫn cổ thư để dẫn chứng.
 [Thái Giáp viết: thiên tác nghiệp, do khả vi] (Chương Thái Giáp trong Kinh Thư có nói : \\\"Chúng ta có thể tránh khỏi tai hoạ do trời đã đặt)
 Đây là giả thiết, đây là tai nạn của thiên nhiên, “do khả vi” là có thể tránh miễn được. Ngày nay chúng ta nói đến tai nạn do thiên nhiên tạo ra, là có thể tránh miễn được, có thể đẩy lui được, đạo lý ở đây rất sâu.
 [Tự tác nghiệt, bất khả hoạt] (tự mình tạo nghiệp thì không thể sống). Ở đây là nói không thể tránh miễn, không thể đẩy lùi. Ý nghĩa của câu nói này rất sâu, tại sao nói tai nạn tự nhiên thì có thể tránh miễn được? Hiện tại, người hiểu được đạo lý này, ngày càng không còn nhiều nữa. Thánh nhân nói với chúng ta, Phật Bồ tát ở trên kinh điển cũng thường nói: “y báo tùy theo chánh báo chuyển”. Y báo chính là nói hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh tự nhiên là tùy theo tâm tánh chúng ta mà chuyển biến. Nếu như tâm tánh của con người trong xã hội đều là thiện lương, thuần phát thì hoàn cảnh sống liền chuyển biến tốt, cái gọi là phong điều vũ thuận, quốc thái dân an. Không phải chỉ có tai nạn nhân tạo mới là do con người tạo ra; ngay cả thảm họa tự nhiên cũng là do con người tạo ra. Trong Phật pháp còn nói đến cộng nghiệp và biệt nghiệp. Cộng nghiệp là do mọi người cùng gây tạo, biến thành tai họa tự nhiên; còn tạo tác của một người thì liền biến thành cát hung họa phước của chính người đó. Cho nên cá nhân mình tạo nghiệp thì không cách gì tránh miễn được. Nếu như nghiệp chướng là do đại chúng xã hội cộng chung lại tạo ra thì tai họa của nó có thể tránh miễn, có thể đẩy lùi được. Đây là chân lý, là chân tướng sự thật. Sau đó, ông dẫn hai câu nói trong Kinh Thi:
 [Thi vân: vĩnh ngôn phối mệnh, tự cầu đa phước]. (Kinh Thi cũng có nói : \\\"Việc mình làm phải phù hợp với ý trời mới tạo được nhiều phước cho mình\\\".)
 Hai câu nói này, “vĩnh ngôn” là chỉ thường hay nói, Cổ Thánh Tiên Hiền thường nói; “phối mệnh” là nói thường hợp với ý trời, tức lòng người hợp với ý trời. Trời là gì? Đến cuối cùng thì trời ở đâu? Trời không có hình tướng cụ thể, đây chỉ là một hình tượng biểu trưng, cái gọi là “trời có đức hiếu sinh”. Thiên tâm là ái tâm yêu thương, tâm yêu thương một cách vô tư. Thiên tâm là tâm yêu thương công bằng, tâm yêu thương bình đẳng. Nếu như bản thân chúng ta có thể tu dưỡng, tâm nguyện chúng ta có thể nâng cao lên đại công vô tư, bình đẳng đối đãi với tất cả người, tất cả sự, tất cả vật. Đây chính là ý nghĩa của “vĩnh ngôn phối mệnh”. Đương nhiên, phước tại trong đó cho nên không cần cầu, phước cũng hiện tiền. Cái ý nghĩa này chư vị hãy tỉ mỉ mà suy xét.
  Phía sau, Vân Cốc thiền sư nói:
 [Khổng tiên sinh toán nhữ bất đăng khoa đệ, bất sanh tử giả, thử thiên tác chi nghiệt, do khả đắc nhi vi dã].
 (Khổng tiên sinh đoán ngươi không đậu tiến sĩ, không con nối dõi, tuy đó là số trời đã định nhưng vẫn có thể không tuân theo).
 Nghiệp do trời gây chính là do ngươi quá khứ tạo tác, cái nghiệp bất thiện do ngươi tạo, có thể khiến ngươi đời nay không có công danh, không có con trai. Đây đều là do ngươi trong đời quá khứ đã tạo ra, nhưng có thể tránh miễn, có thể đẩy lùi. Làm sao để đẩy lùi?
 [Nhữ kim khoách sung đức tính.] Là nói Liễu Phàm tiên sinh cần phải sửa sai tự làm mới.
 [Lực hành thiện sự, đa tích âm đức.]( hết lòng làm thiện, tích trữ âm đức)
 Cái gì gọi là “âm đức”? Làm việc tốt mà không để người khác biết, đây gọi là âm đức. Âm đức, phước báu được dày hơn. Làm một chút việc tốt mà mọi người đều biết, giống như hiện tại, được phương tiện thông tin đại chúng đưa tin; cơ quan đoàn thể biểu dương, tán thán; được giới thiệu trước toàn thể đại chúng. Đây là phước, phước của bạn đã bị tiêu hết, thật đáng tiếc! Cho nên người chân chánh làm việc thiện, không muốn người khác biết. Nếu như làm việc thiện mà nhất định phải có phương tiện thông tin đại chúng giới thiệu, phải được báo chí biết đến, đây không phải làm thiện chân thật. Tâm của bạn vẫn là không rời khỏi danh văn lợi dưỡng, bạn không phải là chân tâm, việc thiện mà bạn làm là giả thiện, là ngụy thiện, không phải là chân thiện. Chân thiện, hà tất phải để người khác biết? Nếu phương tiện thông tin đại chúng tìm đến, bạn cần phải tận lực tránh, đây mới là tốt. Thời xưa, người chân thật có đại đức đại năng, thường che giấu tài năng, ẩn cư trong núi sâu, không ai biết đến, vì vậy đức của họ càng ngày càng tích được dày. Khi nào cơ duyên thành thục, bị người khác phát hiện, họ mới có thể vì nước vì dân mà kiến công lập nghiệp.
 Ở đây ẩn chứa rất nhiều rất nhiều kiến thức, chúng ta cần phải tư duy một cách sâu sắc, chúng ta cần phải học tập.
 [Thử tự kỷ sở tác chi phúc dã, an đắc nhi bất thụ hưởng hồ]. Phước mà mình tạo ra, đương nhiên bản thân có thể hưởng.
 Tiếp theo, đại sư có dẫn “Kinh Dịch” để nói:
 [Dịch vi quân tử mưu, xu cát tị hung]. (Mục đích của Kinh Dịch là giúp cho con người biết tìm phước tránh hoạ)
 
Ông dẫn ra hai câu này là muốn tăng thêm tín tâm cho Liễu Phàm tiên sinh.
 [Nhược ngôn thiên mệnh hữu thường, cát hà khả xu, hung hà khả tị? (Nếu nói số mạng không đổi thì làm sao mà tìm phước tránh hoạ được ?)].
  Câu nói này rất hay. Nếu như nói vận mệnh là nhất định, không thể cải đổi, thì câu nói này trong “kinh Dịch” giảng không được thông. Có nghĩa là, hai câu nói này trong “kinh Dịch” cho chúng ta biết, vận mệnh vốn rất sống động, không có nhất định. Chúng ta mỗi ngày khởi tâm động niệm, khởi thiện niệm thì tăng phước, phước tăng lên một phần, khởi niệm ác thì phước giảm đi một phần. Mỗi ngày chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác luôn có gia giảm tăng bớt, ngày ngày đều có gia giảm tăng bớt. Tại sao vận mệnh của người thế gian đều bị đoán định? Bởi vì mức độ gia giảm tăng bớt của anh ta không lớn, không ly khai quá nhiều so với vận mệnh của chính mình, cho nên đoán được rất chuẩn. Nếu như mức độ gia giảm tăng bớt rất lớn, thì vận mệnh được đoán định liền không chuẩn nữa. Phía trước đã nói, người đại thiện thì mạng số không câu thúc được, người đại ác thì số mạng cũng thay đổi. Chính bởi mức độ gia giảm tăng bớt của anh ta quá lớn. Anh có đại thiện, họa liền biến thành phước. Anh làm đại ác, phước biến thành họa, đạo lý ở chỗ này.  
 [Khai chương đệ nhất nghĩa, tiện thuyết, tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh, nhữ tín đắc cập phủ]. (Ngay chương đầu của Kinh Dịch đã nói : \\\"Gia đình làm thiện, ắt dư phước cho con cháu\\\"  Ngươi có tin những điều đó không?).
 Những sách này, Liễu Phàm tiên sinh ngày thường đọc được rất thuộc. Đọc thuộc chính là muốn nói: ông làm sao không hiểu được ý nghĩa của nó chứ, có điều ông hiểu không đủ sâu mà thôi. Đại ý là nói, Liễu Phàm tiên sinh đọc nhiều sách của cổ thánh tiên hiền như vậy, bản thân ông lại không có cách nào áp dụng vào trong cuộc sống; không cách nào chân thật dùng vào trong sinh hoạt, công việc, xử sự, đối người, tiếp vật; cho nên vận mệnh của ông ngay đến một tơ hào cũng không cải đổi được.
 Vân Cốc thiền sư vừa khai thị, Liễu Phàm tiên sinh liền hiểu rõ, ông nói:
 [Dư tín kỳ ngôn, bái nhi thụ giáo]. (Con tin lời nói này, con xin nhận lãnh). Lời nói của Vân Cốc thiền sư khiến Liễu Phàm tiên sinh tỉnh ngộ. Vận mệnh xác thực là do ta tạo, ta đương nhiên có thể cải đổi, nhất định phải hiểu được tự cầu đa phước. Chúng tôi học Phật, có nhiều người hỏi tôi, họ nói: Thưa Pháp sư, tại sao Ngài học Phật? Tôi trả lời rất đơn giản: mục đích học Phật của tôi rất đơn thuần, nhằm nâng cao cảnh giới của mình, đây là từ trên quả báo mà nói; còn từ trên nhân mà nói, là tôi muốn nâng cao đức hạnh của bản thân. Tích công lũy đức là tu nhân, nhân tốt, quả đương nhiên sẽ thù thắng. Khi nghiệp nhân quả báo đến, bản thân bạn có thể tỉnh táo quán sát được, bạn sẽ cảm thấy vô cùng hoan hỷ, nhà Phật thường nói là “thường sanh hoan hỷ tâm”. Một đời này luôn sống được rất hoan hỷ, điều này không phải là quá vui thích ư!
  Trong tâm không có phiền muộn, không khắc khoải, không vọng tưởng, không chấp trước, không phiền não, đây gọi là đại tự tại. Trong kinh luận thường nói “thường sanh hoan hỷ tâm”, một đời thường sống trong thế giới cảm ơn, như vậy thật hạnh phúc biết bao!
 Tôi là như vậy mà học Phật. Kỳ thật, đây là lúc nhỏ lão sư đã dạy tôi. Trước khi học Phật, tôi rất yêu thích triết học, thầy của tôi là tiên sinh Phương Đông Mỹ. Ông nói với tôi: Phật học là tinh hoa của triết học, là đỉnh cao nhất trong triết học, “học Phật là sự hưởng thụ tối cao nhất của đời người”. Tôi bị câu nói này của ông làm chấn động, cho nên mới để tâm học tập. Tôi xuất gia, sau khi xuống tóc, tôi liền đến thăm thầy, ông vô cùng hoan hỷ. Ông nói: Con đường ông chọn rất đúng, tôi nói với ông như vậy nhưng không nghĩ ông làm thật.
 Cho nên xác thực là được sự chỉ dẫn của thầy, tôi cũng giống tiên sinh Viên Liễu Phàm, [dư tín kỳ ngôn, bái nhi thụ giáo]. Tiên sinh Phương Đông Mỹ đem Phật giáo giới thiệu với tôi, đại sư Chương Gia đặt nền tảng cho tôi, cư sĩ Lý Bỉnh Nam dùng thời gian 10 năm mà dạy bảo tôi. Một đời được thọ dụng, đạt được khoái lạc, đạt được tự tại.
 Liễu Phàm tiên sinh hiểu rõ rồi, giác ngộ rồi, phía sau là chân thật làm.
 [Nhân tương vãng nhật chi tội], quá khứ đã tạo ra tội ác quá nhiều, sai lầm quá nhiều.
 [Phật tiền tận tình phát lộ].
 
“Phát lộ” một tơ hào che giấu cũng không có, hoàn toàn nói hết ra.
 [Vi sơ nhất thông], “sơ” là văn chương, chính là bản thân hạ quyết tâm muốn sửa đổi tự làm mới, nên đã viết một bài văn sám hối, cầu Phật, Bồ Tát chứng minh, dụng ý là ở tại điểm này.
 [Tiên cầu đăng khoa], trước tiên cầu đỗ đạt khoa cử. Trong mạng của ông không có công danh, cho nên trước tiên là cầu “đăng khoa”, cầu thi đỗ cử nhân. Trong mệnh của ông chỉ thi đỗ tú tài, tú tài cao nhất cũng chỉ đến cống sinh, cho nên ông không có khoa đệ, dùng từ hiện đại mà nói, ông không có học vị.
 [Thệ hành thiện sự tam thiên điều, dĩ báo thiên địa tổ tông chi đức]. (Nguyện làm 3000 việc tốt để báo đền ân đức của tổ tông, trời đất).
 Chân thật bắt đầu đoạn ác tu thiện, ông phát ra đại tâm như vậy, rất khó có được. Vân Cốc thiền sư xem thấy, vô cùng hoan hỷ, học trò này có thể dạy. Lúc này Viên Liễu Phàm tiên sinh đã 35 tuổi, có thể chân chánh hồi đầu, đoạn ác hướng thiện. Vào thời nhà Minh, “công quá cách” rất phổ biến. Chúng tôi từ trên lịch sử xem thấy, vĩ nhân có thành tựu rất nhiều, đều là đã từng dùng phương pháp công quá cách, để kiểm điểm lỗi lầm của mình.
 [Vân Cốc xuất công quá cách thị dư, linh sở hành chi sự, toại nhật đăng ký, thiện tắc ký số, ác tắc thoái trừ, thả giáo trì Chuẩn Đề chú, dĩ kỳ tất nghiệm]. (Vân Cốc thiền sư đưa cho ta cuốn sổ công quá cách, bảo ta ghi hết những điều đã làm trong ngày; thiện thì được điểm, ác thì trừ điểm. Ngoài ra còn dạy ta trì chú Chuẩn-Đề và chờ ngày ứng nghiệm).
 Liễu Phàm tiên sinh, ông chân thật là một phàm phu, là người sơ học, hơn nữa, căn tánh của ông không phải là thượng căn lợi trí, có thể nói ông là người căn tánh trung hạ, cho nên Vân Cốc thiền sư mới dùng “công quá cách” để giúp đỡ ông. Công quá cách, hiện tại tại ở Đài Loan và Hương Cảng cũng rất lưu thông, nên có thể tìm thấy. Chúng tôi trong quá khứ cũng đã từng in ấn rất nhiều. Mỗi ngày đều đánh dấu, việc tốt đã làm trong ngày tôi tự mình đánh dấu. Mỗi ngày sai sót đã tạo, phản tỉnh lỗi sai, sai cũng đánh dấu vào. So sánh thiện ác, tôi ngày hôm nay đến cuối cùng là thiện nhiều hay ác nhiều? Thời gian đầu tôi làm, nhất định là thiện ác lẫn lộn, có khả năng là ác nhiều hơn thiện, cảnh giác của bản thân liền tăng cao. Ngày ngày đều chân thật nỗ lực sửa sai, hi vọng đến một ngày, một khi mở công quá cách ra đều là thuần thiện không ác, thì bạn đã thành công rồi.
 Đây là Vân Cốc thiền sư dạy ông từ trên sự mà sửa, tuy đây không phải là phương pháp cao minh, nhưng đối với người bình thường, phương pháp này rất có hiệu quả. Thiền sư còn dạy cho ông Chú Chuẩn Đề. Trong nhà Phật, tham thiền, trì chú, niệm Phật; phương pháp tuy không đồng, nhưng mục đích, hiệu quả lại hoàn toàn giống nhau, đều để điều phục tâm. Người bình thường không thể không có vọng tưởng; chỉ có Phật, bồ tát, người tu hành đắc đạo mới không có vọng niệm. Vọng niệm đối với chúng ta có hại vô cùng lớn, chúng ta phải biết. Vọng niệm không chỉ phá hoại thanh tịnh tâm của chúng ta, mà còn có ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe thân thể chúng ta. Chúng tôi xem thấy lúc Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, một ngày ăn một bữa, nửa ngày ăn một lần, hơn nữa ăn rất đơn giản, rất ít. Người hiện tại chúng ta nghĩ “sao đủ dinh dưỡng”? Chúng ta là không rõ đạo lý, chân chánh đạo lý rõ ràng, hoát nhiên đại ngộ, nguyên lai dinh dưỡng là bổ sung năng lượng cho thân thể.  Thân thể giống như một bộ máy, cái bộ máy này vận động suốt 24 giờ đồng hồ, ngay cả lúc ngủ cũng không ngừng nghỉ; tim mạch luôn đập, máu huyết tuần hoàn; cho nên cần phải có năng lượng. Ăn uống là để bổ sung năng lượng, giống như đổ dầu cho xe chạy. Tuy nhiên đối với xe, chúng ta đều biết, có loại xe hao xăng, có loại xe tiết kiệm xăng. Thân thể chúng ta cũng như vậy, thân thể đối với việc tiêu năng lượng, có loại hao nhiều năng lượng, có loại ít tốn năng lượng. Năng lượng đến cuối cùng là tiêu tốn ở đâu? Hiện tại, chúng tôi chân thật hiểu rõ, 95% là tiêu tốn trên vọng tưởng. Điều này cần phải minh bạch, tại sao người tu hành có thể một ngày ăn một bữa? Vì tâm họ thanh tịnh, ít vọng tưởng, cho nên họ tiêu tốn năng lượng ít, thân thể khỏe mạnh. Phàm phu nhiều vọng tưởng, tạp niệm nhiều, mỗi ngày bổ sung ba lần cũng không đủ, vẫn còn phải ăn khuya, ăn điểm tâm, một ngày từ sáng đến tối luôn là phải bổ sung, anh ta tiêu tốn rất nhiều. Tiêu tốn quá nhiều như vậy, thân thể nhất định cũng không tốt. Cho nên nếu bạn muốn bảo trì thân thể khỏe mạnh, phải giảm bớt vọng tưởng. Vọng tưởng giảm rồi, ăn uống của bạn cũng tự nhiên giảm xuống. Thân thể khỏe mạnh nhất là không cần phải ăn uống, tại sao vậy? Ăn uống có ít hơn, cũng không có cách gì hòan toàn làm được đến không có ô nhiễm. Không ăn uống thì nhất định phải không có ô nhiễm, thân thể của bạn mới thật sự khỏe mạnh. Cho nên ăn uống quá nhiều không phải là điều tốt, ăn quá nhiều, chất dơ không thể bài tiết ra hết, mức độ ô nhiễm của các cơ quan trên thân thể bạn so với người khác đặc biệt  nhiều. Cổ nhân nói “bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất”, câu nói này một chút cũng không sai. Dạy người trì chú, trì chú tức tu thanh tịnh tâm. Đối với người có tạp niệm, bạn hãy đem niệm đó tập trung vào câu chú, thì tạp niệm liền mất, dùng một ý niệm để thay cho tất cả vọng niệm, đạo lý là ở chỗ này; hiệu quả vô cùng rõ rệt. Cho nên bạn có thể dùng cách tham cứu, dùng trì chú, hay niệm Phật để làm đều được. Phương pháp rất nhiều rất nhiều, nhà Phật thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp là phương pháp, môn là con đường; phương pháp, con đường, quá nhiều quá nhiều. Bạn có thể chọn lựa một môn, hai môn; giúp bạn nhiếp tâm, giúp bạn tiêu trừ vọng tưởng. Tâm địa thanh tịnh, trí huệ liền hiện tiền, chân tâm hiển hiện. Đây là một loại phương pháp và cách thức tu hành. Vân Cốc thiền sư:
  [Ngữ dư viết: phù lục gia hữu vân, bất hội thư phù, bị quỷ thần tiếu ]. (Thiền sư dạy ta rằng : « Những người chuyên vẽ bùa chú cho rằng : \\\"Vẽ bùa không đúng cách sẽ bị quỷ thần chê)
 Những chuyên gia vẽ bùa chú thường nói: Anh không biết vẽ thì sẽ bị quỷ thần cười chê. Quỷ thần không chỉ là chê cười bạn, có đôi lúc còn khiến bạn chịu không nổi. Ở đây có bí quyết.
 [Thử hữu bí truyền, chỉ thị bất động niệm dã], (bí quyết vẽ bùa là vẽ trong lúc không động niệm), vẽ bùa, niệm chú, niệm Phật; xác thực có cùng một mục đích. Đây là nói, hình thức phương pháp không giống nhau, nhưng nguyên lý, mục đích của chúng thì hoàn toàn tương đồng, đều là cần phải dùng chân tâm, tức là một vọng niệm cũng không có, như vậy bùa mới linh.
 [Chấp bút thư phù], chúng ta cầm bút để vẽ bùa.
 [Tiên bả vạn duyên phóng hạ, nhất trần bất khởi], bạn phải đem tất cả vọng niệm thảy đều buông xuống hết, một vọng niệm cũng không sanh.
 [Tùng thử niệm đầu bất động xử, hạ nhất điểm, vị chi hỗn độn khai cơ, do thử nhi nhất bút huy thành]. (Rồi từ chỗ niệm chưa động chấm xuống, chấm đó gọi là \\\"hỗn độn khai cơ\\\". Rồi vẽ một hơi liên tục đến hết.)
 Thư phù, đây là nói bùa có linh hay không, bạn hãy xem người vẽ bùa. Sở dĩ họ bình thường phải luyện tập, luyện rất thành thục. Chúng tôi từ nhỏ, lúc còn là học sinh cũng rất thích vẽ, mỗi ngày đều luyện, tuy nhiên lúc đó chúng tôi không hiểu được nguyên lý này. Nếu như trong lúc vẽ mà còn khởi lên vọng niệm, thì bùa vẽ không linh. Một đạo bùa từ khi hạ bút cho đến khi vẽ xong không có vọng niệm, tâm hòan toàn thanh tịnh, đạo bùa đó mới linh. Do đây có thể biết, trì chú cũng phải như vậy, khi trì chú không được xen tạp vọng niệm; hễ một vọng niệm xen tạp thì chú này không linh. Do đây có thể biết, trì chú thật không dễ dàng, chú càng dài càng khó niệm. Chú càng dài thì trong thời gian dài không dễ dàng không khởi tạp niệm. Cho nên nhà Phật thường nói, tụng kinh không bằng trì chú, trì chú không bằng niệm Phật. Tại sao vậy? Kinh dài hơn chú nên không khởi vọng rất khó, chú cũng là tương đối dài, trong khi trì không khởi vọng tưởng cũng không dễ dàng; Phật hiệu thì ngắn, bốn chữ “A MI ĐÀ PHẬT”. Trong khi niệm bốn chữ “A MI ĐÀ PHẬT” này không xen tạp một vọng niệm thì câu phật hiệu này linh. Một mặt niệm Phật, một mặt khởi vọng tưởng, thì phật hiệu không linh. Cho nên các phương pháp này đều là giúp nhiếp tâm, đều giúp chúng ta đạt được thanh tịnh tâm. Thanh tịnh tâm là chân tâm, trong tâm có vọng tưởng thì cái tâm này gọi là vọng tâm. Vọng tâm thì có sanh diệt, chân tâm thì không sanh không diệt, trong chân tâm không có vọng niệm, cho nên nó không sanh diệt. Làm cách nào để có thể đem sanh diệt đoạn hết, khôi phục đến không sanh không diệt? Đây là mục tiêu cao nhất trong công phu tu học của nhà Phật, làm đến không sanh không diệt. Đạo lý này, rất khó có được là Vân Cốc thiền sư đã vì chúng ta mà nói ra. Phía sau ông nói:
 [Phàm kì thiên lập mệnh, đô yếu tùng vô tư vô lự xử cảm cách]. (Phàm là cầu trời lập mạng, đều cảm ứng trong lúc không suy nghĩ vọng tưởng).
 “Cảm cách” là nói cầu cảm ứng. Từ trên nội tâm mà cầu, từ trên trời cao mà cầu, đều phải dùng tâm chân thành, cái gọi là “thành tắc linh, bất thành vô vật”. Lại nói:
 [Mạnh tử luận lập mệnh chi học], (Mạnh tử nói về số mạng rằng); bàn về lập mệnh, sớm nhất là do Mạnh Tử nói.
 [Nhi viết: yểu thọ bất nhị, phù yểu dữ thọ, chí nhị giả dã, đương kì bất động niệm thời, thục vi yểu, thục vi thọ.] (Rằng: Yểu thọ không hai, về \\\"yểu và thọ\\\", nếu cho là hai việc khác nhau, thì trong lúc không động niệm, thế nào là yểu? Thế nào là thọ?)
 Câu nói này của Mạnh tử rất cao minh. “Yểu” là chỉ đoản mệnh, “thọ” là chỉ trường thọ. Yểu mệnh cùng trường thọ là một chứ không phải hai, câu nói này người bình thường nghe không hiểu. Đoản mạng cùng trường thọ khác nhau quá xa, làm sao có thể nói là một không phải hai? Chúng ta bởi vì nhìn thấy đó là hai, xem thấy khác nhau quá lớn, chúng ta là dùng cái tâm gì để nhìn? Tâm phân biệt, tâm chấp trước, cho nên xem thấy nó là hai. Nếu như tâm bạn không động, trong tâm một niệm cũng không có. Có phân biệt nên mới thấy có hai, có ba. Nếu không có tâm phân biệt thì nào thấy có hai, có ba chứ? Người thế nào mới không phân biệt? Thánh nhân không có tâm phân biệt, Phật không có tâm phân biệt, Bồ tát không có tâm phân biệt. Phàm phu có tâm phân biệt, cho nên mới đem tất cả thế gian pháp biến thành đối lập; đối lập giữa lớn và nhỏ, giữa dài và ngắn, giữa thiện và ác, giữa chân và vọng, hoàn toàn đều đem biến thành đối lập. Cái đối lập này chính là luận tương đối mà khoa học gia nói đến; sống tại thế gian tương đối, đây là chỉ thế gian hư vọng, là “mộng huyễn bào ảnh” đuợc nói đến trên kinh Kim Cang, đây không phải là chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Chân tướng của vũ trụ nhân sinh gọi là “nhất chân”, đây chính là nói, trong thế giới đó quyết định không có tương đối, đây mới là thế giới chân thật. Có tương đối thì không phải là thật. Trong lục đạo là tương đối, trong thập pháp giới vẫn là tương đối, đến nhất chân pháp giới thì tương đối không còn nữa. Chúng tôi nói tương đối không còn, vậy có phải sẽ có tuyệt đối hay không? Tuyệt đối cũng không có. Tuyệt đối và tương đối, hai cái hỗ tương tạo nên, tương đối không có, tuyệt đối cũng không có. Cảnh giới này trong kinh Phật thường nói là “bất khả tư nghị”. Tư là tư duy, bạn không thể nghĩ, một khi nghĩ thì bạn đã sai rồi. “Nghị” là nghị luận; nói- cũng không thể nói, nói thì liền sai rồi, “Mở miệng liền sai, động niệm đều trái”. Đó mới là pháp giới nhất chân chân thật, mới là chân bình đẳng. Câu nói đó của Mạnh tử thật không đơn giản. Nếu không khế nhập cảnh giới, ông sao có thể nói ra được. Cho nên tuy Mạnh tử không tiếp xúc với Phật pháp, nhưng nếu dùng tiêu chuẩn của nhà Phật để xem, thì Khổng tử-Mạnh tử đều là đại Bồ tát, không phải người bình thường. Ngôn luận, quán sát của họ, trên Phật pháp mà nói, cảnh giới từ thất địa bồ tát của đại thừa viên giáo trở lên.
 [Tế phân chi], đây là nói suy nghĩ rộng ra.
 [Phong khiểm bất nhị, nhiên hậu khả lập bần phú chi mệnh]. (nhìn giàu nghèo không hai rồi mới lập mệnh giàu nghèo) “Phong” là bội thu, người nông phu năm nay được mùa bội thu, thu hoạch được tốt. “Khiểm” là nói thành quả thu hoạch không tốt.
 Thu được nhiều, gọi là phong phú, năm nay có thể sống được sung túc. Năm nay bị khiếm thu, mỗi ngày phải sống rất nghèo khó. Nếu như bạn có thể hiểu được “phong khiểm bất nhị”, đó chính là giàu nghèo không hai, bạn mới có thể lập mệnh giàu nghèo.
 [Cùng thông bất nhị, nhiên hậu khả lập quý tiện chi mệnh], (Nhìn cùng và thông là không hai có thể lập mệnh quý tiện.)
 “Cùng” là rơi vào cảnh khốn cùng, làm cách gì cũng không thể thoát khỏi cảnh khốn khổ, không thể thành tựu. “Thông” là thông đạt, khi muốn làm việc gì thì trợ duyên rất nhiều, vô cùng thuận lợi. Nếu bạn không hiểu cái đạo lí này, bạn không thể lập mệnh được mệnh quý, tiện. Chúng tôi muốn hỏi: Thế gian có giàu nghèo hay không? có; có quý tiện hay không? có. Làm sao để lập mệnh? Người nghèo định ở cảnh nghèo, người giàu định ở cảnh giàu, người cao quý định ở cao quý, người hèn kém định ở hèn kém, đây gọi là lập mệnh. Hai bên coi trọng nhau, kính ái nhau, đây là chân chánh biết thiên mệnh. Cho nên thế gian này vĩnh viễn thái bình, xã hội quyết định không thể động loạn. Tại sao? Tri mệnh. Đây là học vấn, là học tập chân thật, là học vấn chân thật. Tiếp theo nói:
 [Yểu thọ bất nhị, nhiên hậu khả lập sanh tử chi mệnh]. (Nhìn yểu thọ không hai, sau đó mới có thể lập mệnh yểu thọ)
  Sinh tử, cái hiện tượng này đều là ở trong lục đạo luân hồi. Có đáng sợ hay không? Không đáng sợ. Sinh tử vô cùng bình thường, chỉ khi nào bạn đem cái đạo lí này hiểu thật rõ ràng, minh bạch; bạn có còn tham sống sợ chết hay không? Không sợ. Sống và chết là một sự việc, không phải là hai sự việc. Người thông đạt rồi, đối với việc xả thân hay thọ thân, cũng như việc sanh tử, chẳng khác gì việc chúng ta cởi áo hay thay áo vậy. Chúng ta lấy y phục tỉ dụ với thân thể; cái áo này mặc lâu rồi đã bị dơ, bị rách rồi, ta tự nhiên đem nó cởi ra. Cởi đi, chính là cái thân này cũng không cần nữa; lại thay một cái áo khác. Cho nên việc sinh tử, xả thân thọ thân cũng giống như thay áo vậy. Ở đây, chúng ta cần phải chú ý, cái áo chúng ta đổi, càng đổi càng đẹp, tốt! Nếu như càng đổi càng kém, vậy thì không tốt rồi. Nếu như một người tạo ác đa đoan, thân thể này của anh ta xả bỏ, thân thể mà đời sau anh ta có được so với đời này kém hơn. Thân súc sanh, thân ngạ quỷ, thân địa ngục; những thân này so với chúng ta thật không dễ nhìn. Nếu như một  người cả đời hành thiện, hiếu thiện tích đức, sau khi thân thể này của anh ta xả bỏ, đời sau anh ta sanh thiên, thân của thiên nhân so với thân của chúng ta thì trang nghiêm hơn nhiều. Anh ta đắc Bồ tát thân, đắc Phật thân thì lại càng trang nghiêm hơn nữa. Bạn hiểu được cái chân tướng sự thật này, hiểu được đạo lý này, bạn mới chân chánh khẳng định đoạn ác tu thiện. Đoạn ác tu thiện, tuy là lợi ích cho người khác nhưng lợi người mới chân thật là lợi mình, đây là chân lý. Tổn người quyết định là hại mình, người thế gian thường nói “tổn người lợi mình”, câu nói này không đúng, tổn người quyết định là hại mình. Bạn làm lợi mình chẳng qua chỉ là một chút lợi ích trước mắt, có thể là sau vài chục năm, hoặc sau khi bạn chết đi, bạn liền biến thành ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục; đây chân chánh gọi là hại chính mình, tổn hại thê thảm, đến lúc này bạn hối hận cũng không kịp. Cho nên, việc tổn người nhất định không được làm; người chân chánh thông minh, minh bạch quyết định sẽ làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh.
 Văn nhân là người theo sự nghiệp văn hóa giáo dục, chúng ta ngày nay xem thấy có rất nhiều tác phẩm được xuất bản; có rất nhiều người gởi thư, gởi tác phẩm cho tôi xem. Tôi trước tiên là xem trang bản quyền, nếu trên trang bản quyền ghi rằng “bản quyền sở hữu, phiên ấn tất cứu” (tức có bảo lưu bản quyền, in ấn tất bị truy cứu). Quyển sách này tôi không xem. Tại sao tôi không xem? Tôi nghĩ người này không thể viết được cái gì hay ho cả. Bởi vì tâm anh ta rất tự tư, anh ta không muốn làm lợi ích cho đại chúng. Còn tôi thì không muốn lãng phí thời gian, tinh thần của mình. Cho nên tôi không xem. Nếu phía sau viết “hoan nghênh in ấn, công đức vô lượng”, quyển sách này tôi sẽ tỉ mỉ xem từ đầu đến cuối. Tại sao vậy? Tâm lượng của anh ta lớn, anh ta không có cái niệm tự tư tự lợi. Đây là người tốt, là người thiện, tác phẩm của anh ta nhất định có thể đọc. Cho nên cách tôi đọc cùng với người bình thường không giống nhau. Bản thân tôi, trong những năm gần đây, băng ghi hình và băng ghi âm giảng kinh số lượng rất nhiều, tính tóan tổng số cũng có đến mấy ngàn loại, thư tịch cũng không ít. Tôi hòan toàn không có bản quyền, hoan nghênh in ấn, hoan nghênh lưu thông. Mọi người nếu có thể lưu thông, in ấn, tôi rất cảm kích. Họ là coi trọng tôi, nếu coi thường tôi, họ tại sao phải tốn nhiều tiền như vậy để làm cái sự việc này? Tôi hà tất phải hạn chế người khác, nếu không thể in ấn, không thể lưu thông thì nguyện vọng giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui của chúng tôi vĩnh viễn không thể đạt được. Cho nên chúng tôi hoàn toàn không có bản quyền, mặt khác lại rất hoan nghênh người khác sao chép, in ấn lưu thông. Cho nên đối với vấn đề sinh tử, thấu suốt rồi, nhìn thấu rồi; biết được chân tướng sự thực rồi, cho nên ý niệm tham sống sợ chết liền không còn nữa. Bất luận là chết vào lúc nào, phương thức ra sao đều có thể hoan hỷ, vui vẻ. Tại sao? Vì biết được sau khi xả bỏ thân này, lập tức đổi một thân khác so với thân hiện tại càng tốt hơn, càng thù thắng hơn. Tôi có lòng tin, tôi nắm chắc.
 [Nhân sinh thế gian, duy tử sinh vi trọng, viết yểu thọ, tắc nhất thiết thuận nghịch giai cai chi hỹ.] Thế gian đều cho sống chết là việc quan trọng, cho nên ở đây chỉ đề cập vấn đề “thọ yểu” mà thôi. Hiểu được “yểu thọ không hai” thì sẽ hiểu hết thảy mọi việc thuận nghịch trên đời đều như vậy.
 “Cai” là bao quát, chỉ cần đem điều này thấu suốt, trong tất cả các cảnh giới, bạn đều được tự tại. Tất cả thuận nghịch; thuận cảnh-nghịch cảnh; hoàn cảnh nhân sự, thiện duyên-ác duyên, đều bao gồm hết trong đó. Bao gồm trong đó là cái gì? Bất nhị, chúng ta cần phải nhập vào cảnh giới này. Chúng ta trong một đời, không tránh khỏi sẽ gặp được những người đối xử tốt với chúng ta, chiếu cố chúng ta, đây là ân huệ; nhưng cũng có người bất mãn, ác ý hủy báng, hãm hại, vũ nhục chúng ta. Chúng ta dùng cái tâm gì để đối đãi với họ? Dùng tâm cảm ơn để đối đãi. Người đối tốt với ta, ta cảm kích họ, vì họ giúp đỡ ta rất nhiều. Người không tốt với ta, người hủy báng ta, người vũ nhục ta, người hãm hại ta; ta cũng phải vô cùng cảm kích họ. Cảm kích họ cái gì? tiêu nghiệp chướng cho ta, thành tựu đức hạnh cho ta. Cũng chính là nói, họ dùng cách đó đối với ta để xem xem tâm của ta có bình tĩnh hay không, ta có còn tâm sân khuể hay không? Nếu như ta vẫn còn một niệm sân khuể, vẫn còn một niệm phục thù, thì ta là phàm phu, công phu của ta không tiến bộ. Anh ấy như vậy đối với ta, cũng như ra một bài khảo thí, ta đã đậu rồi. Ta đối với anh ấy không có ác ý, không có ý niệm phục thù; không chỉ không có niệm báo thù mà ta còn cảm kích anh ấy.
  Cái niệm Phật đường nhỏ này, chư vị oán thân trái chủ là người đối với chúng ta không tốt, nhưng tôi đã lập bài vị cúng dường cho họ, ngày ngày tụng kinh niệm Phật hồi hướng cho họ. “Bạn hãm hại tôi như vậy, tôi vẫn cầu chúc cho bạn, tôi xem bạn cũng như chư Phật Bồ tát không khác. Bạn tại sao lại đối với tôi không tốt? Là do bạn không đủ hiểu tôi. Cho nên tất cả đều xuất phát từ sự hiểu lầm, hà tất phải so đo chứ? So đo, đó là lỗi của tôi. Tôi không so đo, tôi cảm ân, tôi kính trọng. Nếu khi nào bạn gặp khó khăn mà cần tôi giúp đỡ, tôi sẽ toàn tâm tòan lực giúp đỡ bạn.” Đây là đạo lí làm người, cần phải thẩm thấu “bất nhị pháp môn”. Bất nhị pháp môn là trong nhà Phật nói. Chúng ta từ chỗ này mà xem, từ những lời nói của Mạnh tử mà xem thấy, Nho gia cũng khế nhập bất nhị pháp môn. Nho-Phật là một, không phải hai. Sau này chúng ta sẽ tỉ mỉ quan sát, thế giới có rất nhiều sách tông giáo, trong cái nhìn của tôi đều là bất nhị pháp môn. Cho nên khi tôi học Phật, tôi vào giáo đường của các tôn giáo đó, tôi lễ bái, tôi cung kính, nhiều người cảm thấy rất kỳ quái. Tôi nói: một điểm cũng không lạ, tất cả thần đều là một không phải hai. Tốt, hôm nay chúng ta giảng đến đây.

 


Ngủ rồi be-buti

Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 3)
2013-06-01 11:31:21
(PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 16/04/2001
Chư vị đồng tu, xin chào mọi người!
 Phía trước đã nói đến “hữu cầu tất ứng”, Vân Cốc thiền sư đã đặc biệt tăng thêm ngữ khí khi ông nói, “vọng ngữ là đại giới trong nhà Phật, chư Phật Bồ Tát sao có thể nói lời khi dối người chứ”. Những lời này đã giúp ông Viên Liễu Phàm tăng thêm lòng tin. Sau khi nghe xong, Viên Liễu Phàm nói:
 [Dư tiến viết: Mạnh tử ngôn: “cầu tắc đắc chi, thị cầu tại ngã giả dã. Đạo đức nhân nghĩa, khả dĩ lực cầu, công danh phú qúy, như hà cầu đắc?”] (nghĩa là: ta liền nói: Mạnh tử dạy: cầu mà được bởi vì điều cầu đó có ở trong tâm ta. Như đạo đức nhân nghĩa có thể tìm cầu; còn công danh phú quý, làm sao cầu được?).
 Liễu Phàm tiếp tục hướng về Vân Cốc thiền sư thỉnh giáo: Mạnh Tử đã từng nói qua: cầu mà được bởi vì điều cầu đó có ở trong tâm ta. Đạo đức nhân nghĩa, điều này ta có thể cầu được; còn công danh phú quý là điều ở ngoài thân, làm sao có thể cầu được?
 [Vân Cốc viết: Mạnh tử chi ngôn bất thác, nhữ tự thác giải liễu. Nhữ bất kiến Lục tổ thuyết, nhất thiết phước điền bất ly phương thốn. Tòng tâm nhi mịch, cảm vô bất thông, cầu tại ngã, bất độc đắc đạo đức nhân nghĩa, diệc đắc công danh phú quý, nội ngoại song đắc, thị cầu hữu ích ư đắc dã.] (Vân Cốc trả lời rằng: Mạnh Tử nói không sai, chỉ vì ngươi hiểu sai mà thôi. Ngươi không nghe Lục Tổ nói sao? Tất cả phước điền đều không rời tâm. Từ nơi tâm mình mà cầu thì mọi sự đều cảm ứng. Tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ cầu được đạo đức, nhân nghĩa; mà ngay cả công danh, phú quý cũng cầu được; trong ngoài đều được; cầu như vậy mới hữu ích vì cầu mà được vậy.)
 Đoạn đối thoại này vô cùng quan trọng, Vân Cốc thiền sư chung quy vẫn là một người tu hành. Khi hai người gặp nhau, Viên Liễu Phàm 35 tuổi, còn thiền sư lúc đó đã 69 tuổi, hơn nữa, ông còn là một người tu hành chân chánh đắc đạo. Trung Quốc chúng ta thường nói “đắc đạo” là nói người đã chân chánh khai ngộ, chân chánh khế nhập được vào cảnh giới của Phật, Bồ Tát. Cho nên, lời của Mạnh tử không sai, chỉ là ông đã hiểu sai ý nghĩa của nó mà thôi. Lời nói của Mạnh tử không sai ở chỗ nào, còn ông Viên Liễu Phàm giải sai ở điểm nào? Ở đây không nói nhiều, tôi giảng qua, chư vị phải tỉ mỉ mà thể hội. Hai câu nói này của Vân Cốc thiền sư, bạn tự nhiên liền minh bạch, phía sau, ông còn cử ra câu nói của Thiền Tông Lục tổ Huệ Năng đại sư. Câu này ở trong “Lục Tổ Đàn kinh”: [nhất thiết phước điền, bất ly phương thốn]. “Phương thốn” chính là chỉ cho tâm địa của chúng ta. Cát hung họa phước là từ trong tâm chúng ta biến hiện ra, bất li phương thốn.  [Tòng tâm nhi mịch cảm vô bất thông], chúng ta cầu cảm ứng, cầu cảm ứng thì từ chỗ nào mà cầu? từ chân tâm mà cầu. Cho nên cầu phú quý được phú quý, cầu trai gái được trai gái, cầu sống lâu được sống lâu. Cho nên, bạn phải hiểu được cái đạo lý tìm cầu, phải biết được cái phương pháp tìm cầu. Nếu bạn như lý như pháp mà cầu, có điều gì bạn không cầu được chứ. Thế-xuất thế gian khó nhất là thành Phật, thành Phật mà còn có thể cầu được thì hà huống gì là công danh, phú quý thế gian. Điều đó rất bình thường, tính toán làm gì, nào có đạo lý không cầu được chứ. Nào có đạo lí cầu không được, chúng ta hôm này cầu, quan trọng nhất là thông, cái gì gọi là “thông”. Chính là quán thông không gian duy thứ, ở đây tôi muốn nói, người hiện đại tương đối dễ lí giải. Dùng phương pháp gì để “quán thông”? chính là dùng tâm chân thành. Thế nào gọi là “thành”, thế nào gọi là “chân”. “Chân” là không vọng, không hư vọng, một tơ hào hư vọng cũng không có. Còn thế nào gọi là “thành? Vào những năm cuối đời Thanh, Tăng Quốc Phan tiên sinh nói được rất hay, trong “Độc thư bút ký”, ông đã cho chúng ta một định nghĩa về chữ Thành như sau: “một niệm không sanh thì gọi là thành”, định nghĩa này vô cùng chính xác. Trong Phật pháp nói một vọng niệm cũng không có thì gọi là chân thành, tâm chân thành chính là bổn tánh của chúng ta, cũng chính là chân tâm của chúng ta. Thế, xuất thế gian nhất thiết pháp đều từ trong chân tâm bổn tánh biến hiện ra. Bạn tìm ra được chân tâm bổn tánh thì sao có đạo lý cầu không được?
 Nói đến Sự-Lý, Thích Ca Mâu Ni Phật trên đại thừa kinh giáo đã nói đến rất nhiều rất nhiều, những ai học đại thừa đều biết những giáo huấn này của Phật. Những người nào được thọ dụng? những người y giáo phụng hành sẽ có chỗ thọ dụng, sẽ đạt được lợi ích. Nếu như bạn đọc kinh, bạn chỉ cần đọc, không nên đi lí giải đạo lý trong kinh, không tìm hiểu ý nghĩa của nó. Nếu bạn không thể đem những phương pháp đạo lí này chân thật áp dụng trên hành vi, sinh hoạt của bạn; bạn sẽ không đạt được lợi ích, bạn vẫn là chưa thông. Không thông thì dù bạn có cầu cũng không thể có cảm ứng.
 Trong quá khứ, tôi đã từng đề khởi vấn đề này, đại khái là 30 năm trước, lúc tôi ở tại chùa Pháp Hoa, đường Tây Môn, thuộc Đài Bắc, giảng kinh Địa Tạng. Tôi còn nhớ lúc đó tôi giảng kinh, pháp sư Quảng Khâm có đến nghe một lần, ông ngồi ở phía dưới, trên một tấm bồ đoàn. Có một ngày, khi tôi đang giảng kinh, một vị pháp sư ở Cơ Long nghe tôi giảng đến vấn đề cảm-ứng, ông liền đến hỏi tôi: Pháp sư, cái đạo lý cảm ứng mà ông nói hòan toàn không đáng tin cậy. Tôi nói: sao không đáng tin cậy chứ? Ông nói: Tôi mỗi ngày đều hướng đến Phật Bồ Tát cầu một cái tủ lạnh, cầu đã ba năm nay mà vẫn chưa có. Tôi liền cười hỏi: Pháp sư, đạo tràng của ông có bao nhiêu người vậy? Ông đáp: chỉ có một mình tôi ở đó. Tôi nói: chỉ có một mình ngài ở đó, đâu cần thiết phải có một cái tủ lạnh, vì vậy mới cầu không được.
 Tôi lại nói: trong những năm gần đây, tôi đều là “có cầu tức có ứng”. Ông ấy hỏi tôi cầu những gì? Tôi nói: Vì tôi phải giảng kinh cho nên tôi muốn tham khảo tư liệu. Lúc đó tại Đài Loan, việc tìm kiếm thư tịch kinh điển quả thực là không dễ dàng gì. Rất khó có được, là có người đã giới thiệu cho tôi pháp sư Trí Khai ở Hương Cảng, tôi và pháp sư Trí Khai chưa từng gặp mặt, tôi cứ ngỡ rằng ông ấy là một vị pháp sư lớn tuổi. Cho nên mỗi lần viết thư, tôi đều cung cung kính kính mà xưng là “lão pháp sư”. Sau này gặp mặt mới biết, hai người chúng tôi là đồng niên. Pháp sư Trí Khai giúp đỡ cho tôi rất nhiều, phàm là những thư tịch tôi cần thì ông đều sưu tập lại, rồi gởi đến Đài Loan cho tôi. Khi nào tôi có tiền, khi đó tôi mới hòan trả cho ông, còn khi nào không có tiền, thì tôi nợ lại. Điều này đã giúp đỡ cho tôi rất nhiều. Hầu như, những sách mà tôi đưa ra, những thứ mà tôi cần đều là thư tịch cổ, ông đều tìm giúp tôi. Trong số đó có một bộ thời gian tìm rất lâu, mất hết nửa năm, bộ sách “Trung quán luận số”. Bộ sách này sáu tháng sau ông mới gởi đến cho tôi. Thật không dễ tìm mà!
 Tôi nói với vị pháp sư đó rằng, tôi là hữu cầu tất ứng, cái mà tôi cầu là cầu đạo, là cái mà tôi thật sự cần; còn ngài cầu cái tủ lạnh, cái này đâu cần thiết. Người xuất gia trên phương diện đời sống vật chất cần phải thanh bần, không nên xa hoa. Cái mà ngài cầu không như pháp, còn cái mà tôi cầu là như pháp, nếu mà cầu đúng như lý như pháp thì chân thật là hữu cấu tất ứng. Cho nên tôi đối với sự chỉ dạy của thầy, đối với điều được nói trên kinh điển là tin sâu không nghi.
 [Tùng tâm nhi mịch, cảm vô bất thông], tám cái chữ này chính là đạo lý và phương pháp của hữu cầu tất ứng vậy. Cầu từ trong tâm thì không chỉ đạo đức nhân nghĩa, mà ngay cả công danh phu quý cũng có thể cầu được, trong ngoài đều được, cầu như vậy mới hữu ích vì cầu được vậy. Chúng ta phải phát tâm cầu việc thiện, không được cầu việc ác, như vậy mới tốt.
 Tiếp theo sau, kinh văn viết: [Nhược bất phản cung nội tỉnh, nhi đồ hướng ngoại trì cầu, tắc cầu chi hữu đạo, nhi đắc chi hữu mệnh hĩ, nội ngoại song thất, cố vô ích.] (Nếu không hướng nội phản tỉnh mà chỉ biết hướng ngoại tìm cầu, thì cách cầu như vậy chỉ đạt được những cái trong số mệnh vốn có mà thôi, trong ngoài đều mất, cho nên vô ích vậy.)
 Những lời đại sư khai thị, từng câu từng chữ đều vô cùng quan trọng. Chúng ta muốn cầu, bất luận là đức hạnh bên trong hay tài vật bên ngoài, chính là những nhu cầu tất yếu trong cuộc sống. Nếu bạn không biết phản cung nội tỉnh; cái cầu này là phản tỉnh, hồi đầu. Nhà Phật thường nói “hồi đầu thị ngạn-quay đầu là bờ”, bạn cần phải quay lại nội tâm mà phản tỉnh. Nếu hướng nội mà tìm cầu nhất định bạn sẽ cầu được. Nếu như bạn không thể phản tỉnh, không thể vun bồi cho đức hạnh của mình, mà chỉ biết hướng ngoại phan duyên thì [cầu chi hữu đạo, đắc chi hữu mệnh], nghĩa là  “phương pháp của bạn, nếu có cầu được, chỉ là do trong số mạng đã sẵn có”. “Đạo” là chỉ phương pháp mà bạn cầu, lí luận mà bạn dùng. Giống như hiện tại, trong các nhà sách, trên các thông tin, chúng ta xem thấy trên thế giới có những doanh nhân rất thành công, đã viết ra những bài học kinh nghiệm cho sự nỗ lực thành công trên thương trường của họ, để mọi người lấy làm tham khảo. Nếu như bạn dùng những phương pháp lí luận trong đó của họ để tìm cầu, và những cái bạn muốn có thể cầu được thì là do trong mạng của bạn có; nếu trong mạng của bạn không có, thì vẫn là không cầu được. Tại sao vậy? Bởi vì bạn không từ trong chân tâm để cầu, không từ trong tâm tánh để cầu. Phương pháp cầu như vậy thật đúng là “trong ngoài đều mất, nên vô ích”. Chúng ta nhìn thấy trong xã hội ngày nay, những người như vậy thật quá nhiều, quá nhiều. Đoạn này đại sư muốn nhắc nhở chúng ta.
 Ở đọan sau là đề cập đến phương pháp cải tạo vận mệnh, bao gồm vài đoạn văn ngắn. Đoạn đầu tiên là nói bạn nhất định phải biết lỗi lầm của bản thân, chân thật phản tỉnh, tìm cho ra căn nguyên của chúng. Thí như, trong mạng của bạn không có con trai, nguyên nhân của không có con trai là gì? Thọ mạng ngắn. Nguyên nhân của đỏan mệnh là gì?
 [Nhân vấn Khổng công toán nhữ chung thân nhược hà]
 Vân Cốc thiền sư hỏi Liễu Phàm: Khổng đạo trưởng đoán mệnh cho ngươi thế nào, cuộc đời của ngươi ra làm sao?
 [Dư dĩ thực cáo]
 Viên Liễu Phàm thành thật hướng đến Vân Cốc thiền sư báo cáo hết.
 [Vân Cốc viết: nhữ tự sủy ứng đắc khoa đệ phủ, ứng sanh tử phủ].
 Ông quay đầu lại hỏi tôi rằng, ngươi thấy ngươi có xứng đáng đắc khoa cử hay không? ý nói công danh. Ngươi có xứng đáng có con trai hay không? Nhất định cần phải hướng nội phản tỉnh.
 [Dư truy tỉnh lương cữu]. Ông nghe lời nói ấy của Vân Cốc thiền sư thì suy nghĩ rất lâu.
 [Bất ứng dã].
 Ông trả lời: con không xứng đáng. Liễu Phàm là người đọc sách, cũng là người thông minh, ông suy nghĩ một lát liền đưa ra được không ít lí do.
 [Khoa đệ trúng nhân, loại hữu phúc tướng. Dư phúc bạc, hựu bất năng tích công lũy hạnh, dĩ cơ hậu phúc, kiêm bất nại phiền kịch, bất năng dung nhân, thời hoặc dĩ tài trí cái nhân, trực tâm trực hành, khinh ngôn vọng đàm. Phàm thử giai bạc phúc chi tướng dã, khởi nghi khoa đệ tai?
 (Vì những người thi đậu làm quan là những người có phước tướng. Con phước mỏng, hơn nữa không chịu tích công bồi đức để tạo phước dày, lại thêm tính không nhẫn nại, thường bực bội nóng nảy, cũng không biết bao dung người khác, thường cậy tài năng chèn ép người khác, nghĩ gì làm nấy, không thận trọng lời nói, lại hay nói bậy. Những điều như thế đều là tướng vô phước, sao xứng đáng đỗ đạt công danh.)
 Liễu Phàm liền hồi đầu phản tỉnh, đem những tật xấu của mình nói hết ra, đây là điều rất khó có được. Cho nên, người bình thường vốn rất ít nói như Vân Cốc thiền sư, ông rất hiếm khi mở miệng với người khác, có khi cả ngày cũng không có tiếng nói, lại cùng tiên sinh Viên Liễu Phàm nói nhiều như vậy, thật không dễ! Đây là điều mà cổ nhân thường nói “chân chánh gặp được tri kỉ”, cho nên mới nói nhiều như vậy.
 Liễu Phàm nghĩ bản thân ông không xứng đáng, tại sao vậy?
 
[Khoa đệ trúng nhân – người trúng khoa cử], là chỉ cho những người thi đỗ làm quan đều phải có phước tướng, trong khi bản thân ông phước rất bạc, chỉ ông không có phước thì làm sao có thể thi đỗ được. Thêm vào đó, ông có rất nhiều khuyết điểm, ông không biết tích công lũy đức để phước dày hơn. [Cơ] là cơ sở, từ trên cơ sở đó bồi dưỡng phước đức cho mình, điều này ông không làm được. Tại sao lại không làm được? Vì “bất nại phiền kịch” ? (thiếu nhẫn nại lại hay nóng nảy buồn phiền), tánh khí hẹp hòi, không biết bao dung người khác.
 [Thời hoặc dĩ tài trí cái chi]-thường hay cậy vào tài trí của mình mà chèn ép người khác. “cái” là lấn lướt, nhằm hạ bệ người khác. Người hiện tại nói là thích làm trung tâm, thích áp chế người khác. [trực tâm trực hành], điều này có nghĩa trong tâm anh nghĩ muốn nói gì thì liền nói cái đó, chứ không phải ý nghĩa trực tâm trực hành mà Cổ Thánh Tiên Hiền dạy trong kinh giáo.
 Trong kinh Duy Ma có nói: “trực tâm là đạo tràng”, ý nghĩa của trực tâm trực hành ở trong kinh là không có vọng tưởng, không có phân biệt, không có chấp trước. Còn đây lại chính là vọng tưởng phân biệt chấp trước; là tập khí, tật xấu.
  [Khinh ngôn vọng đàm], nói mà không suy nghĩ, tùy tiện mà nói. Tất cả đều là “bạc phúc chi tướng”. Chính bản thân ông hiểu được: “con tật xấu nhiều như vậy, ngày ngày đều là tạo nghiệp, sao có thể thi đỗ công danh”. Thời xưa, khoa cử là chỉ việc tham gia khảo thí do nhà nước tổ chức để đạt được học vị, chính là học vị mà ngày nay chúng ta nói. Thời xưa cũng có ba học vị bao gồm tú tài, cử nhân, tiến sĩ; tương ứng với ba học vị trong trường học của chúng ta hiện nay là học sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ. Điều này nói rõ nguyên nhân mà ông ta không có được công danh là bởi vì ông không có phước. Phía sau, ông tiếp tục nói nguyên nhân vì sao ông không có con trai.
 [Địa chi uế giả đa sinh vật, thủy chi thanh giả thường vô ngư] (đất dơ có nhiều sinh vật, nước trong không có cá tôm.)
 Hai câu nói trên là thành ngữ. Đất, chúng ta thấy ở nơi nào đất dơ bẩn thì chúng sinh vật sinh trưởng ở đó rất nhiều, gọi là đất đai màu mỡ. Còn nước trong quá thì không có cá.
 [Dư hiếu khiết], ông thích sạch sẽ.
 [Nghi vô tử nhất giả], thích sạch sẽ lại biến thành bệnh quá sạch, vậy làm sao có thể có con? Đây là lí do thứ nhất không có con trai. Nguyên nhân không đáng có được con trai.
 [Hòa khí năng dục vạn vật, dư hiếu nộ, nghi vô tử giả nhị].
 Hòa khí vô cùng quan trọng, ngạn ngữ nói “gia hòa vạn sự hưng”. Một quốc gia không có sự hòa hài, quốc gia đó không thể giàu mạnh được. Nếu bất hòa thì dấu hiệu suy bại đã ở trước mắt rồi vậy. Cho nên Hòa quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Ông không có hòa khí, thường hay nóng giận, câu này có nghĩa, chính là điều mà chúng ta nói “cống cao ngã mạn, cuồng vọng tự đại, không coi ai ra gì”. Liễu Phàm nghĩ mình như vậy nên không xứng đáng có được con trai.
 Thứ ba: [Ái vi sanh sanh chi bổn, nhẫn vi bất dục chi căn, dư căng tích danh tiết, thường bất năng xả kỉ cứu nhân, nghi vô tử giả tam.]
 Đây là điều thứ ba ông không xứng có con trai. “Ái” chỉ từ ái, là căn bản của sự sanh sôi nảy nở, ông không có tâm yêu thương nên tâm địa rất tàn nhẫn. Tàn nhẫn lại là căn nguyên của việc không sinh sản. Ông còn nói: ta đối với danh tiết của bản thân vô cùng xem trọng. Chỉ vì quá coi trọng danh tiết nên không thể xả kỷ vị nhân. Đây là nguyên nhân thứ ba ông không xứng đáng có con trai.
 Tiếp theo, ông nói: [Đa ngôn hao khí, nghi vô tử giả tứ].
 Ông thích nói, thích than phiền, thích châm chích người; nói theo cách nói hiện nay là ông thích mỉa mai người khác, ở trước đám đông thường khiến người khác phải khó xử, chính là thích trêu chọc người. Đó là nguyên nhân thứ tư ông không có con trai.
 [Hỷ ẩm thước tinh, nghi vô tử giả ngũ].
 
Hỷ ẩm là nói ông thích uống rượu, lại thường uống say, nên làm tổn hại đến tinh thần thể lực của mình. Đây cũng là nguyên nhân thêm, khiến ông không có con trai.
 [Hiếu triệt dạ trường tọa nhi bất tri bảo nguyên dục thần].
 Ông thích ngồi thâu đêm, khuya mà vẫn không đi ngủ, không biết bảo dưỡng nguyên thần. Tất cả những điều này khiến ông không có con trai, cho dù có con thì đứa trẻ đó cũng đỏan mệnh.
 [Kỳ dư quá ác thượng đa, bất năng tất sổ].(Tật xấu của con quá nhiều, không thể đếm xuể). Ông phản tỉnh lại chính mình thì nhận thấy tật xấu thật quá nhiều quá nhiều.
 Nói đến “triệt dạ trường thọ”, trong nhà Phật có nói đến “bất đáo thiền”, dùng cách ngồi thiền để thay cho việc ngủ nghỉ. Câu này tôi nói mang ngữ khí không tốt, các bạn phải nghe hiểu được. Ngồi thiền trong định thì tâm thanh tĩnh, chứ không phải ngủ gục. Nếu như ngồi thay cho ngủ, thì không phải nằm ngủ thoải mái hơn sao! Ngồi ngủ thì thật quá khổ. Cái đạo lý này nhất định phải hiểu.
 Thời gian đầu học phật tôi rất ngưỡng mộ, bởi vì người có thể học được bất đáo thiền không nhiều, ngay cả giường chiếu cũng không cần, sinh hoạt càng đơn giản thì càng tự tại. Tôi đã từng hỏi qua thầy Lý rằng: con học cái này có được hay không? Bởi vì ở Đài Trung, tôi học mỗi ngày ăn một bữa. Tôi có thời gian 5 năm mỗi ngày chỉ ăn một bữa, sáng tối đều không ăn, tinh thần thể lực vẫn rất tốt. Lão sư cũng rất hoan hỷ, rất tán thán. Bởi vì Thầy vốn dĩ cũng ngày ăn một bữa, đại khái suốt bốn, năm mươi năm đều như thế. Tôi ở Đài Trung học Thầy.
 Tôi tiến thêm một bước, muốn học bất đáo thiền tức ngủ ngồi. Thầy cười nói: nằm ngủ so với ngồi ngủ không phải thoải mái hơn hay sao. Về sau tôi cũng thôi luôn, không muốn học nữa. Tại sao vậy? Ông ấy đã làm gương cho tôi. Tôi không cách gì nhập định, chẳng qua cũng chỉ là ngồi ngủ mà thôi. Chúng tôi cũng xác thực trông thấy những người học bất đáo thiền đó, tôi đã tỉ mỉ quan sát, anh ta là ngồi ở đó mà ngủ, ngồi ngáy, ngồi ngủ gục. Cho nên anh ta không phải là nhập định, không hề giống Hư Vân lão hòa thượng. Hòa thượng Hư Vân là ngồi nhập định, không phải ngủ.
 
Chân chánh là người tu hành thì ý niệm tự tư tự lợi phải đoạn sạch, đối với ngũ dục lục trần của thế gian, xác thực là không động tâm.
 Thời gian đó, tâm của ông rỗng rang, lại không có âm khí nên có thể ở trong định. Trí huệ sáng suốt, niệm niệm tăng trưởng, hiện tượng ngủ nghĩ đã đoạn được. Muốn đoạn được ngủ nghỉ phải có công phu, tâm địa phải thanh tịnh, thanh tịnh đến một trình độ nhất định thì không cần đến ngủ nghỉ nữa. Bởi vì tài sắc danh thực thùy, năm món ngũ dục này chỉ có ở dục giới; sắc giới cùng vô sắc giới đều không có. Do đây có thể thấy, những thứ này có thể đoạn được còn phiền não tập khí của bạn thì không thể đoạn. Vậy thì bạn đâu cần miễn cưỡng ngồi mà ngủ chứ. Điều này tổn hại đến thân thể, sống không mạnh khỏe, điều này chúng ta cần phải biết. Cho nên trong việc tu hành, ngàn vạn lần không nên coi trọng sĩ diện, hiếu thắng, những gì bản thân không làm được thì đừng nên miễn cưỡng, đến cuối cùng chỉ làm cho bản thân mình thương tổn mà thôi, đây không phải là việc làm ngu si hay sao?
 Sau khi tiên sinh Viên Liễu Phàm phản tỉnh.
 [Vân Cốc viết: Khởi duy khoa đệ tai, thế gian hưởng thiên kim chi sản giả, định thị thiên kim nhân vật, hưởng bách kim chi sản giả, định thị bách kim nhân vật, ứng ngạ tử giả, định thị ngạ tử nhân vật. Thiên bất quá nhân tài nhi đốc, ki tằng gia tiêm hào ý tư]. (Vân Cốc nói: Không chỉ là khoa cử, thế gian có người hưởng được gia tài ngàn lượng vàng, trở thành tỷ phú; có người hưởng được gia sản trăm lạng vàng, trở thành triệu phú, cũng có người bị chết đói. Trời cũng chỉ là dựa vào số mạng của họ thôi, nào có thêm bớt theo ý mình.)
 Những lời nói này vô cùng chí lý, chúng ta phải tỉ mỉ mà suy xét. Vân Cốc thiền sư dạy cho Viên Liễu Phàm tiên sinh, ông nói: Nào chỉ nói đến thi cử công danh thôi đâu, trên thế gian người đại phú đại quý, trong nhà có tài sản ngàn vạn lượng vàng, anh ta đã được ấn định là người giàu có. Câu này ý nói, anh ta phải có cái phúc phận đó mới được. Nếu đời trước anh ta không tu phước thì đời nay làm sao có được phước báu như vậy. Nếu đời trước tu tích được nhiều thì đời nay phước báu lớn. Đoạn này có ý nghĩa như vậy. Nếu không có phước báu, phải chịu chết đói, cũng chính là ở đời quá khứ đã tạo tác tội nghiệp quá thâm trọng. Báo ứng là do chính mình làm chính mình chịu, cùng trời, đất, quỷ thần, chư Phật Bồ Tát không có can hệ. Cho nên phía sau ông có nói: Trời cũng chỉ là dựa theo số mạng của họ mà thôi, nào có thêm bớt theo ý mình. Câu này có nghĩa, ông trời rất công bằng đối với tất cả chúng sanh, ông trời ở đây thực chất là nói chính là quả báo tự nhiên, xác xác thực thực không có một thành kiến nào khác, không có một ý tứ nào khác ở đây. Phía sau là nói với ông ta tầm quan trọng của việc tích công lũy đức. Ông liền nói:
  [Tức như sanh tử, hữu bách thế chi đức giả, định hữu bách thế tử tôn bảo chi, hữu thập thế chi đức giả, định hữu thập thế tử tôn bảo chi, hữu tam thế nhị thế chi đức giả, định hữu tam thế nhị thế tử tôn bảo chi, kì trảm yên vô hậu giả, đức chí bạc dã.]
 (Vấn đề sinh con nối dõi cũng vậy, có người tích công đức trăm đời sẽ để lại cho trăm đời con cháu hưởng. Người tích công đức mười đời sẽ để lại cho mười đời con cháu hưởng. Người chỉ tích được công đức hai đời, ba đời thì chỉ để lại cho hai đến ba đời con cháu hưởng. Còn những người vô hậu thì cho thấy phước của họ quá mỏng vậy).
 Đây là Vân Cốc thiền sư chiếu theo những tri kiến thông thường, để khuyên bảo Liễu Phàm tiên sinh tích công lũy đức.
 [Bách thế chi đức]. Cổ Thánh tiên vương trước đây của Trung Quốc chúng ta, tôi từ trong lịch sử xem thấy Vũ Vương. Đời Hạ, Thương, Chu; Nhà Hạ trị vì 400 năm, nhà Thương trị vì 600 năm, nhà Chu trị vì 800 năm, đây là những triều đại dài lâu nhất trong lịch sử, do tổ tông hữu đức. Nhà Chu có thể trị vì lâu như vậy là vì Văn Vương, Vũ Vương, Chu Công. Công đức mà họ tích lũy được là công đức trăm đời, nhất định là trăm đời con cháu được hưởng, đây là cái nhìn của thế tục. Còn nói đến người không ở ngôi vua, Trung Quốc có Khổng Tử. Giáo học của Khổng tử là dùng đại công vô tư, chân thành ái tâm, không phân biệt để giúp đỡ cho tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Công đức của ông tích được rất lớn. Ngày nay chúng ta xem thấy, con cháu đương thời của ông, đại khái truyền đến hơn 70 đời.
 Ông không chỉ được người Trung Quốc tôn kính; tiên sinh Khổng Đức Thành đi đến Mỹ, ở tại Cựu Kim sơn, ông ấy nhận được sự kính trọng của các nhân sĩ, xã hội Mỹ ở đó. Mọi người chỉ cần nghe nói đó là hậu nhân của Khổng lão phu tử thì đối với ông đặc biệt kính trọng, chính là cái sự việc như vậy.
 [Thập thế chi đức], cũng giống như đế vương lịch triều Trung Quốc. Ngày nay chúng ta đang nói về tiên sinh Viên Liễu Phàm, ông là người Minh triều. Minh triều Thái tổ là tiền nhân của ông, đại công đại đức ông ấy tích được có thể truyền đến 17 đời. Nhà Minh ở ngôi hơn 270 năm. Chúng ta hãy xem xem người thế gian, những gia đình giàu có, có thể truyền được ba đời, hai đời. Trong xã hội hiện nay đã không còn nhiều nữa, tuy nhiên vẫn thấy. Còn trường hợp một đời đã hết phước, thậm chí tuổi già của mình cũng không chu toàn được; trung niên phát tài, tuổi già phá sản, trường hợp này thì thường thấy trong xã hội. Đây là cái tình huống gì vậy?
 [Đức chí bạc], anh không tích công lũy đức, khởi tâm động niệm, hành vi tạo tác đều là tự tư tự lợi, nếu làm được một chút điều tốt, thì không buông bỏ được danh văn lợi dưỡng. Anh ta làm viện thiện nhưng nếu việc thiện đó không có điều kiện thì anh ta không làm. Những việc tốt mà anh ta làm đối với xã hội tất yếu phải đạt được giá trị của nó, để được đại chúng tán thán, được chính phủ ca ngợi biểu dương, để được mọi người công nhận tài năng của mình. Những việc thiện mà anh ta làm không phải là từ chân tâm; nên đây là giả thiện, không phải chân thiện. Đây là đức quá mỏng. Đưa ra một số ví dụ như vậy để sau đó nói với ông, đối với những khuyết điểm của mình, triệt để sửa đổi làm mới thì ông nhất định có thể cầu được.
 [Nhữ kim ký tri chi], ông ngày nay đã chân thật nhìn thấy những sai lầm của mình.
 [Tương hướng lai bất phát khoa đệ, cập bất sanh tử chi tương, tận tình cải xoát.]
 
Muốn cải tạo vận mệnh thì phải bắt đầu làm từ đâu? Phải từ những tập khí, sai lầm của mình mà hạ thủ. Ông hãy tự nghĩ xem, ông hiện tại nói ra nhiều nguyên nhân như vậy, bản thân ông hiểu rất rõ, ông tại sao lại không thi đỗ công danh, thì hãy đem tất cả những khiếm khuyết, khiến ông không đỗ đạt công danh từ từ mà cải sửa trở lại. Tại sao ông không có con trai, bây giờ ông đã phản tỉnh, ông đều đã biết rõ, vậy ông hãy đem tất cả những sai lầm đó của mình sữa đổi. [Tận tình cải xoát], tận tình sửa sai. Sau đó, thiền sư dạy cho ông cách tu thiện.
 [Vụ yếu tích đức], “Vụ” nghĩa là bắt buộc, nhất thiết phải tích công đức. Quá khứ bạn đã làm ra những sự việc tổn đức quá nhiều, cống cao ngã mạn, thường cậy vào tài trí của mình mà chèn ép kẻ khác, luôn luôn hiếu cường, hiếu thắng, không biết bao dung cho người khác. Đây đều là những việc làm sai lầm, hãy từ đây mà sửa.
 [Vụ yếu bao hoang], cần biết bao dung. “Bao hoang” là chỉ tâm lượng rộng lớn, tâm lượng của ông quá nhỏ hẹp vì vậy cần thiết phải biết bao dung hết thảy. Phật Bồ Tát vĩ đại ở chỗ, tâm lượng của các Ngài vô cùng rộng lớn “tâm bao thái hư, lượng chu sa giới”. Hôm nay, tôi muốn nói với các bạn một vấn đề, tôi muốn nói đến người bản địa Úc châu nơi đây. Họ tự xưng là “chân nhân-con người chân thật”, sống tại sa mạc hoang vu, chính phủ làm nhà cho họ, họ không ở, biến nơi đó trở thành kho chứa đồ. Tối đến, ngày ngày họ đều hoan hỷ ngủ trên đại địa hoang vu trên sa mạc. Thật có đạo lý! Tâm lượng của họ rộng mở như vậy. Bạn bè nói với tôi, anh ta nói: xác thực, người Mông Cổ; người Tây Tạng, Thanh Hải; người Tân Cương; họ đều là những tộc người du mục. Họ sống ở hoang mạc, những bài ca của họ rất hào sảng, tâm lượng rất rộng mở. Người hiện nay chúng ta thật đáng thương, sống trong căn hộ như đang ở trong lồng chim vậy, cho nên tâm lượng nhỏ hẹp biết bao! Làm sao có thể so sánh với họ được, cho nên tâm lượng phải mở rộng, người có tâm lượng lớn sẽ có phước đức.
 [Vụ yếu hòa ái], cần phải hòa ái. Liễu Phàm tiên sinh thiếu khuyết hòa khí, khiếm khuyết ái tâm, cho nên nhất định phải tu dưỡng hòa ái.
 [Vụ yếu tích tinh thần], thích uống rượu, thích thức đêm, đây đều là không biết yêu qúy bản thân, không biết thương tiếc thân thể của chính mình. Vân Cốc thiền sư đưa ra những trọng điểm như vậy để giúp ông cải đổi tập khí, chân thật nhận ra vấn đề mà tu học, tu thiện tích đức.
 [Tùng tiền chủng chủng, thí như tích nhật tử], trước đây đã lỡ sai lầm như vậy, bây giờ cũng không nên nghĩ đến nó nữa.
 [Tùng hậu chủng chủng, thí như kim nhất sanh, thử nghĩa lý tái sinh chi thân dã]
 Câu nói này rất hay, nếu người có thể sửa sai làm mới thì có thể vượt thoát số mệnh, số mệnh không thể trói buộc họ. Trong nhà Phật, Phật thường khuyên chúng đệ tử phải phát nguyện, trong nhà Phật phát nguyện cũng như ở thế gian gọi là lập chí. Tuy nhiên, Phật dạy người phát nguyện là vì để phục vụ chúng sanh; câu này có nghĩa, bạn phải có đạo đức, có học vấn, có năng lực thì bạn mới có thể vì xã hội, vì chúng sanh mà phuc vụ. Vì vậy, sau khi phát tâm, bạn phải tu dưỡng những điều kiện đó. Tu dưỡng phẩm đức, bạn nhất định phải đem phiền não, tập khí của mình đoạn hết. Thành tựu học vấn, thành tựu đức hạnh, bạn nhất định phải tu thiện, tích công lũy đức, bạn mới có năng lực thực hiện nguyện vọng của mình. Tôi muốn giúp đỡ xã hội, tôi muốn giúp đỡ cho những khổ nạn chúng sanh; nếu như bản thân không có đủ những điều kiện đó, nguyện của bạn đã phát ra cũng chỉ là nguyện suông, vĩnh viễn chỉ là hư nguyện không thể thực hiện được, là nguyện giả, không phải thật. Nếu bạn phát nguyện giả, đó là bạn có tội, đó là tội gì? Tội khi dối Phật, Bồ tát; tội lừa gạt chúng sanh. Cho nên phát nguyện hư giả thì sẽ có tội, không có công đức.
 
Chúng đệ tử nhà Phật, nguyện thông thường nhất là “tứ hoằng thệ nguyện”. “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, “độ” dùng từ hiện tại mà nói chính là cứu giúp, là tương trợ. Chúng sanh vô lượng vô biên, chúng ta phải phát tâm đi giúp đỡ họ, đi tương trợ họ, giúp đỡ họ lìa khổ được vui, giúp đỡ họ phá mê khai ngộ, bản thân chúng ta phải có năng lực mới được. Phía sau tiếp theo có ba điều kiện. Điều thứ nhất là đoạn phiền não, điều thứ hai là học pháp môn. Đoạn phiền não thành tựu đức hạnh cho bản thân, học pháp môn thành tựu học vấn cho bản thân. Sau đó thành Phật đạo, viên mãn công đức cho bản thân. Nguỵện này của bạn mới là chân thật, không phải là hư giả.
 Nếu như nguyện của bạn rất dũng mãnh, rất lớn lao, siêu việt được nghiệp lực, thì nguyện của bạn trong nhà Phật thường nói là “thừa nguyện tái lai”, vận mệnh của bạn sẽ chuyển biến 180 độ, nếu nguyện lực lớn hơn nghiệp lực thì đã thành công rồi. Hôm nay chúng ta chỉ giảng đến đây thôi.

 


Ngủ rồi be-buti

Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 2)
2013-05-31 09:40:07
(PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 16/04/2001
 Chư vị đồng tu, xin chào mọi người!
 Phía trước chúng ta đã giảng đến chỗ tiên sinh Viên Liễu Phàm bái kiến thiền sư Vân Cốc, ngồi đối diện trong thiền đường suốt ba ngày ba đêm, mà không khởi một vọng niệm nào.
 Vân Cốc thiền sư thấy lạ, liền hỏi ông duyên cớ vì sao? Viên Liễu Phàm tiên sinh thưa với Vân Cốc thiền sư là vận mệnh của ông đã được Khổng tiên sinh đoán định, trong hai mươi năm nay một tơ hào cũng không sai, nên ông cho rằng khởi tâm động niệm cũng đều vô ích, do vậy tâm ông định lại.
 Lúc này, Vân Cốc thiền sư mới bảo: Cuộc đời của ông đã bị số mệnh câu thúc. Có thể bị vận số câu thúc, là bởi vì ông còn có vọng niệm, không thể gọi là người có công phu, chỉ có thể gọi là một phàm phu tiêu chuẩn mà thôi. Liễu Phàm tiên sinh sau khi nghe xong, vội quay lại thỉnh giáo ông.
 [Dư vấn viết: nhiên tắc số khả đào hồ? Viết: mệnh do ngã tác, phúc tự kỷ cầu, Thi Thư sở xưng, đích vi minh huấn. Ngã giáo điển trung thuyết, cầu phú quý đắc phú quý, cầu nam nữ đắc nam nữ, cầu trường thọ đắc trường thọ. Phù vọng ngữ nãi Thích Ca đại giới, chư Phật Bồ Tát, khởi cuống ngữ khi nhân.]
  Trong đoạn đối thoại này, ý nghĩa hàm chứa trong đó vô cùng sâu sắc. Tiên sinh Viên Liễu Phàm hỏi: Người đều có số mạng, số mạng này có thể thay đổi sao? Ông đưa ra nghi vấn này, thiền sư đáp lại rằng “mạng là do mình tạo, phước là do mình cầu”. Hai câu nói này, phía trong ẩn chứa vấn đề rất quan trọng. Trước tiên chúng ta phải hiểu rõ, lục đạo phàm phu chạy không thoát khỏi số mạng. Số mạng từ đâu mà có? Cổ Thánh Tiên Hiền, chư Phật Bồ Tát, họ là người đến nơi đây, họ đối với chân tướng sự thật thấu triệt hiểu rõ, tơ hào cũng không sai, điều này chúng ta phải tin tưởng. Nếu như dùng cách nói của các khoa học gia hiện đại, đó chính là không gian duy thứ vô hạn, cũng chính là ba độ không gian, bốn độ không gian, năm độ không gian mà họ nói đến. Trên lí luận mà nói, không gian là độ số vô hạn. Chúng ta sinh tại nhân đạo, cho nên chỉ sinh hoạt trong ba độ không gian, chúng sanh ở duy thứ từ bốn độ không gian trở lên, chúng ta không biết được. Ngày nay khoa học gia cho chúng ta biết được xác thực là tồn tại mười một độ không gian. Nhưng làm thế nào để đột phá không gian duy thứ, hiện tại các khoa học gia vẫn còn đang nghiên cứu. Một khi đột phá được không gian duy thứ, điều mà chúng ta đã nói, tức bạn có thể biết được quá khứ, tương lai. Quá khứ đã tạo nhân gì, hiện tại phải chịu quả báo như thế nào, đời nay tạo cái nhân gì, tương lai quả báo ra sao, không phải đều hiểu rõ ràng hay sao? Đây không phải là cách suy đoán, so với Khổng tiên sinh còn cao minh hơn hay sao? Khổng tiên sinh là từ số học, “Kinh dịch” là một bộ số học, ông từ trên số học mà suy đoán, suy đoán được rất chính xác, tuy nhiên không dám nói là hoàn toàn chính xác. Bởi vì lúc suy đoán nếu có một tơ hào không chính xác thì kết quả hòan tòan không giống nhau. Nhưng nếu có thể đột phá không gian duy thứ thì quyết định là hoàn toàn chính xác, một tơ hào cũng không sai. Vì sao? vì quá khứ, hiện tại, vị lai, bạn đều là chính mắt mình nhìn thấy.
 Cái sự việc này, hiện tại mà nói cũng không khó. Tại Cổ Ấn Độ, những chuyên gia về số luận, yoga, bà la môn giáo, họ đều có năng lực này. Cho nên thuyết về lục đạo luân hồi không phải của Phật giáo, mà là của cổ Bà La Môn giáo, nay là Ấn Độ giáo. Lịch sử của họ, hiện tại thế giới công nhận là có 8500 năm lịch sử. So với Phật giáo, họ ra đời sớm hơn rất nhiều. Những người này đều là tu thiền định, trong kinh Phật có nói đến tứ thiền bát định, do đó, không gian duy thứ trong lục đạo, họ cơ hồ đều đã đột phá được. Cho nên trạng huống trong lục đạo, họ nói được rất rõ ràng. Nhưng họ chỉ biết được cái đương nhiên mà không biết được cái sở dĩ nhiên. Lục đạo làm sao mà có, tại sao lại có hiện tượng này, tại sao lại có những biến hóa như vậy, họ đều không biết. Vì vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện tại thế gian này, Người vì sao lại xuất hiện? Là vì những người có năng lực quan sát đến được những cảnh giới như thế, nhưng lại đối với những cảnh giới này có rất nhiều nghi hoặc không thể giải trừ. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện tại thế gian là vì cái sự việc này. Cái gọi là, chúng sanh có cảm thì Phật, Bồ tát có ứng. Điều này đã cảm ứng Thích Ca Mâu Ni Phật đến thế gian này, vì chúng ta mà thuyết minh cái sở dĩ nhiên của những hiện tượng đó. Phật tại trong kinh Đại thừa đã giảng nói được rất nhiều, nhất là trong kinh Hoa Nghiêm. Không chỉ có lục đạo, bên ngoài lục đạo còn có Tứ thánh pháp giới, còn có nhất chân pháp giới, đây đều là quy nạp lại mà nói, nếu nói tỉ mỉ thì không thể dùng ngôn ngữ để nói một cách tường tận được. Cũng giống như chỗ mà khoa học gia đã nói, không gian duy thứ vô hạn, cùng với Phật tại trong kinh nói được hòan toàn tương ưng. Làm sao phát sinh ra nhiều không gian duy thứ không đồng như vậy? Phật nói với chúng ta, đều là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước biến hiện ra. Chúng ta hãy tĩnh tâm mà quan sát, vọng tưởng của chúng sanh nhiều vô lượng vô biên, niệm trước vừa diệt thì niệm sau liền sanh, một ngày không biết đã khởi bao nhiêu vọng niệm, không biết có bao nhiêu phân biệt, chấp trước, điều này tạo nên không gian duy thứ không đồng; tạo nên hiện tượng không giống nhau.
 
Phật tại trong kinh thường nói, thập pháp giới y chánh trang nghiêm, dùng lời hiện tại mà nói chính là hiện tượng vũ trụ nhân sinh, chính là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Cũng giống như trên màn ảnh ti vi hiện nay, tướng hiện trên màn ảnh ti vi là tâm, do tâm hiện, cái tướng này có thể hoạt động. Nó tại nơi này sản sinh biến hóa, những biến hóa đó gọi là thức biến. Thức chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Những thứ này có thể đem những hiện tượng cải biến, biến được vô cùng phức tạp. Đây chính là căn nguyên Phật đem hiện tượng vũ trụ nhân sinh nói rõ cho chúng ta.
 Cho nên, Vân Cốc thiền sư mới nói “mệnh do ta tạo”, không phải do người khác tạo, cùng người khác không có mảy may quan hệ. Hòan cảnh bên ngòai thân là huyễn cảnh. Trên kinh Kim Cang nói được rất hay “nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh”, không phải là thật. Những hiện tượng này, Phật nói với chúng ta rằng: không thể nói chúng có, cũng không thể nói chúng không có. Cũng giống như nằm mộng không khác, bạn không thể nói là không có cảnh giới mộng, trong mộng cảnh giới xác thực là có tồn tại. Nhưng bạn cũng không thể nói chúng có vì chúng là hư huyễn không thật, xác xác thực thực là liễu bất khả đắc. Nếu chúng ta tỉ mỉ quan sát, hiện tại, chúng ta ở cái thế giới này, xác xác thực thực cũng chỉ là một giấc mộng. Buổi tối, chúng ta đi ngủ, người khác mang chúng ta đi, chúng ta cũng không biết. Do đó mà thấy thân không phải là ta. Các nhà triết học phương Tây rất thông minh, họ biết thân này không phải là ta, do đó họ đưa ra lí luận rằng “tôi tư duy thì tôi tồn tại”. Điều này thừa nhận cái gì? Thân thể vật chất không phải là ta, là hư huyễn. Chỉ khi có thể tư duy, có thể tưởng tượng đó mới gọi là ta. Điều này so với người thông thường cao hơn một bậc. Đó có phải là chân tướng sự thật hay không? không phải. Chúng ta suy nghĩ là vọng tưởng, không phải là chân tướng sự thật. Cho nên cảnh giới của Phật so với họ cao hơn rất nhiều, ngay cả tư tưởng của chúng ta cũng buông bỏ thì thấu triệt căn nguyên, khôi phục chân tâm, khôi phục bổn tánh, sau đó mới có thể xem thấy được chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Cái chân tướng này trong Phật giáo có một tên gọi, là nhất chân pháp giới, hoặc gọi là chân như, cũng gọi là đệ nhất nghĩa đế. Danh từ thuật ngữ mà Phật dùng để chỉ nó rất nhiều. Giáo học của Phật, tại sao lại dùng đến nhiều danh từ như thế? Ở đây có dụng ý, chính là muốn dạy chúng ta phải hiểu rõ chân tướng sự thật, chứ không được chấp trước trên danh tự. Nếu chấp vào danh tự thì lại sinh ra vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
  Ngày nay nếu muốn đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đoạn hết; trong tâm nghĩ “tôi cũng rất muốn”, vấn đề là cái gì? Đoạn không được, vọng niệm vẫn là tiếp nối nhau không dứt, đây chính là lí do chúng ta không thể thành tựu. Chúng ta tuy là từ trong kinh giáo hiểu rõ ràng minh bạch, tin sâu không nghi. Trong Phật pháp nói, chúng ta chỉ là giải ngộ chứ không phải chứng ngộ, không khế nhập được cảnh giới chân thật. Chỉ có chứng ngộ mới có chỗ dụng, giải ngộ không có chỗ dụng, không thể giải quyết được vấn đề. Do đó sau khi giải ngộ phải tu hành, phải đem những lí luận, những phương pháp này chân thật áp dụng vào trong đời sống sinh hoạt của mình, dần dần nâng cao cảnh giới của mình. Được như vậy mới có thể giải quyết được vấn đề. Ở đây nói, chúng sanh trong lục đạo, vọng tưởng phân biệt chấp trước rất nặng, “mệnh do ta tạo”. Cuộc đời chúng ta giàu nghèo sang hèn, đây là mệnh. Vận mệnh này có định số, định số này từ đâu mà có, là do chính bản thân ta tạo. Nhà Phật giảng nhân quả thông ba đời, mỗi người quyết định là đều có đời quá khứ, đời vị lai. Phật giảng đến chỗ cứu cánh. Phật giảng thời gian nói đến cái sát na, sát na, đây là thời gian rất ngắn. Chúng ta ngày nay nói về đơn vị thời gian, nhỏ nhất là giây. Trong nhà Phật nói đến sát na, sát na làm sao mà tính? Phật dùng đàn chỉ, một đàn chỉ có 60 cái sát na. Một đàn chỉ (một khảy móng tay) chưa đến một giây, nếu chúng ta khảy được nhanh thì một giây đồng hồ chúng ta có thể khảy được 4 lần. Một đàn chỉ là ¼ giây, một đàn chỉ lại có 60 cái sát na, vậy 1/60 của ¼ giây mới gọi là một sát na. Trong một sát na lại có 900 sanh diệt, đó là niệm đầu, 1 niệm sanh, 1 niệm diệt, trong một sát na có 900 niệm sanh diệt. Điều này quá vi tế, người bình thường chúng ta không thể quan sát được. Chúng ta bình thường tâm khí bao chao, sao có thể quan sát đến được. Nhập định, trong định thì tâm thanh tịnh, có thể đem vọng tưởng phân biệt chấp trước của chúng ta lắng xuống. Ở trong thiền định thâm sâu, chúng ta mới có thể nhìn thấy được những hiện tượng sanh diệt. Đây phải là công phu rất cao, Vân Cốc thiền sư e rằng vẫn chưa thấy được. Trong đại thừa Phật pháp có nói, có thể nhìn thấy đầu số của sát na sanh diệt, phải là bát địa bồ tát của đại thừa viên giáo. Bát địa còn gọi là bất động địa, rất gần với quả vị của Như Lai. Trên bát địa là cửu địa, thập địa, đẳng giác, rất gần với quả vị Phật, lúc này mới chân chính có thể hiểu được chân tướng của vũ trụ nhân sinh.
 Hôm nay, chúng ta nói đến ý niệm là niệm thô, vô cùng vô cùng thô. Chúng ta khởi lên một thiện niệm, lợi ích cho người khác, cho xã hội, cho chúng sanh, quả báo là được phước. Chúng ta khởi lên một niệm ác, niệm ác là vì lợi ích bản thân, cái gọi là tổn người lợi mình. Cái niệm này trong nhà Phật gọi là ác niệm. Ác niệm thì quả báo là hung, là tai họa. Cho nên, cát hung họa phước trong một đời chính là quả báo của ngôn ngữ tạo tác, khởi tâm động niệm của chính chúng ta, cũng có thể nói là hiện tượng của ngôn ngữ tạo tác. Đây chính là sở dĩ mà nói “mệnh do ta tạo”. Người chân chánh minh bạch hiểu rõ thì khẳng định đối với lời nói này, khẳng định đối với sự thật này. Trong suốt cuộc đời anh ta, bất luận là gặp bất cứ hoàn cảnh trái nghịch, bất thiện thế nào, anh ta cũng quyết không oán trời, quyết không trách người. Anh ta không trách người, mà quay lại trách chính mình “bản thân tôi tạo tác bất thiện nên mới phải chịu quả báo khổ sở như thế này.” Sau khi đã hiểu rõ rồi, phước phải do chính mình cầu, làm sao mà cầu đây? Cải ác làm thiện. Khi tôi còn nhỏ, lúc nhỏ, cha tôi qua đời rất sớm, lúc tôi 21 tuổi thì cha tôi qua đời. Tôi sống đúng vào lúc chiến tranh Trung-Nhật diễn ra, phải chịu 8 năm khổ nạn của chiến tranh, việc học dở dang, vào thời gian đó tôi là học sinh lưu vong, hòan toàn thoát ly gia đình. Nhà nước đối với chúng tôi cũng tính là không tệ, thành lập rất nhiều trường trung học quốc lập, thu nạp những học sinh lưu vong như chúng tôi. Trường học là nhà chúng tôi, thầy cô là cha mẹ chúng tôi, đồng học là huynh đệ tỷ muội của chúng tôi. Cho nên vào thời gian đó, chúng tôi đối với trường học, đối với bạn học, đối với thầy cô là cả một tấm lòng thân ái chân tình. Người hiện tại không cách gì tưởng tượng được, chúng tôi là bạn bè trong hoạn nạn mà có nhau, giúp đỡ chiếu cố lẫn nhau trải qua ngày tháng khó khổ. Cha tôi qua đời, trong gia đình một người cũng không còn. Tôi lưu lạc đến Đài Loan, tại Đài Loan làm việc hết 7,8 năm, tự thấy bản thân mình không có tiền đồ. Thầy của tôi là Chương Gia đại sư, đã thay tôi chọn một nghề nghiệp, ông khuyên tôi xuất gia, khuyên tôi hoằng dương Phật pháp. Tôi đã suy nghĩ rất lâu, Lão nhân gia chỉ thị rất chính xác, tôi nghe theo giáo huấn của ông, chọn cái hành nghiệp này. Tôi học với ông ba năm, ông cho tôi nền tảng cơ bản. Sau khi từ chức, tôi đến Đài Trung học giáo với lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, ở Đài Trung hơn mười năm. Vì vậy ở trong Phật pháp, tôi đã tiếp nhận sự chỉ dạy của hai vị lão sư trong 13 năm, nhưng trong giới học thuật, tôi chỉ mới tốt nghiệp sơ  trung. Cuộc đời sau này của tôi, phước báu là do tôi tự mình mà cầu được. Tôi minh bạch rồi, tôi giác ngộ rồi, cho nên từ sau khi 26 tuổi học Phật, tôi cẩn thận tỉ mỉ, y giáo phụng hành. Lúc nhỏ, cũng có một số người xem tướng đóan mệnh cho tôi, đây là phong tục cổ của người Trung Quốc. Lúc nhỏ, mẹ tôi dẫn tôi đi xem đóan mệnh, tôi cũng gặp qua không ít cao nhân, nói tôi sống không quá 45 tuổi. Vận mạng của tôi so với tiên sinh Viên Liễu Phàm còn khổ cực hơn, thọ mạng cũng ngắn hơn. Ông ấy còn sống đến 53 tuổi, chứ tôi đến 45 tuổi đã hết rồi, Cho nên lúc đó học Phật, tôi đem thọ mạng của mình tính đến 45 tuổi, sau 45 tuổi thì không còn nữa. Trong thời hạn 45 năm này tôi nhất định phải có thành tựu. Thành tựu này chính là quyết định vãng sanh Tịnh độ. Tôi đem mục tiêu đặt ở chỗ này, bản thân cũng có sự tính toán. Đến năm 45 tuổi, quả nhiên tôi bị bệnh nặng, bệnh suốt một tháng. Tôi không đi bác sĩ, cũng không uống thuốc bởi vì bản thân tôi hiểu rất rõ, bác sĩ chỉ chữa được bệnh chứ không cứu được mạng. Mạng đã đến, bạn đi bác sĩ có ích gì? Vì vậy tôi đóng cửa niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ. Mỗi ngày có mấy vị học trò đến nấu cơm cho tôi, ăn cháo, rau dưa. Sau một tháng, thân thể từ từ khỏe lại. Tôi cả đời hầu như không mang bệnh, sau khi khỏe lại, tôi vẫn tiếp tục công việc giảng kinh hoằng pháp. Đến năm sau, càng ngày càng thuận lợi, tôi ở chùa Thiện Đạo gặp được vị Cam Châu Hoạt Phật, đó cũng là bạn học cũ của tôi. Ông ấy là học trò của Chương Gia đại sư, đại khái hơn tôi xấp xỉ 12 tuổi. Lúc gặp nhau, ông ấy nói với tôi, ông ấy nói: Tịnh Không pháp sư, ông qua đây. Chúng tôi rất khó có cơ hội gặp nhau được một lần, cho nên vô cùng hoan hỷ. Ông nói: số mạng của ông bây giờ đã hoàn toàn chuyển đổi rồi. Tôi hỏi: tại sao vậy? Ông nói: lúc trước chúng tôi hay nói sau lưng ông. Tôi hỏi lại: nói điều gì? Nói: ông là người tuy rất thông minh nhưng không có phước báu, lại thêm đoản mệnh nữa. Tôi nói: điều này có thể nói trước mặt tôi, không cần phải nói sau lưng. Tôi còn nói thêm: tôi biết rất rõ. Ông nói tiếp: nhưng hiện tại những năm gần đây ông hoằng dương Phật pháp nên đã hòan toàn chuyển đổi lại rồi, không những có phước báu mà còn trường thọ nữa. Tôi rất cảm khái, đến năm sau thì Cam Châu Hoạt Phật qua đời. Đây là một vị đại đức rất khó có trong Phật giáo Tây Tạng, là một vị thiện tri thức chân chánh, một người xuất gia rất có quy củ, thực sự rất hiếm thấy. Tôi ở Hương Cảng có gặp qua một người, đó là pháp sư Thánh Nhất ở chùa Bảo Lâm trên núi Đại Tự. Tôi đối với ông vô cùng tôn trọng, vô cùng kính ngưỡng. Nghe nói hai năm qua, thân thể ông không được tốt, ông có cống hiến rất lớn cho phật giáo Trung Quốc.
 Cho nên mệnh có thể cải đổi, phương pháp cải mệnh chính là sau khi đã giác ngộ rồi thì không tiếp tục tạo ác nữa. Khởi tâm động niệm đều vì người khác, vì xã hội, vì chúng sanh mà nghĩ, quyết không phải vì bản thân mình. Câu nói này nói được rất dễ, nhưng làm không dễ chút nào. Liễu Phàm tiên sinh làm suốt mười mấy năm liền có cảm ứng hiện tiền. Tôi cũng làm gần 30 năm, cảm ứng cũng rất rõ ràng mà bản thân tôi có thể cảm nhận được. Sau khi học xong, tôi ra giảng kinh thuyết pháp, 20 năm mới có một đạo tràng nhỏ, chính là Hoa Tạng Đồ thư quán ở Kinh Mỹ. Tôi hoằng pháp 20 năm mới có một nơi như vậy. Sau 5 năm nữa mới có “Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội” này. Lại thêm 5 năm nữa, trên thế giới có rất nhiều nơi, chúng tôi thành lập nên “Tịnh Tông Đạo Tràng”. Cho đến năm ngoái, xác thực là lời nói của Kim Châu Hoạt Phật đã ứng nghiệm, mọi việc càng ngày càng thuận lợi, tâm cũng càng ngày càng thanh tịnh, càng ngày càng không nghĩ cho mình. Ngày nay tôi sống ở cái thế giới này là vì người khác mà sống, không phải vì chính mình, bản thân tôi không còn nữa. Danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần tôi thảy đều buông xuống cả rồi. Ấn Quang đại sư lúc cuối đời thường nói: tôi không có gì hết, tôi cũng không sợ chết. Tôi hiện tại cũng sắp nhập vào cảnh giới của đại sư rồi, bản thân không có gì, chân thật cũng không sợ chết. Chết đối với tôi mà nói là sự việc rất hoan hỷ, vô cùng hào hứng. Bởi vì tôi biết chết sẽ đi về đâu; sanh từ đâu tới, chết sẽ đi về đâu. Tất cả tôi đều rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch. Đây gọi là “mệnh do ngã tác, phúc tại kỷ cầu” (mệnh do mình tạo, phước tại mình cầu) vậy. Câu nói này là thật, một chút cũng không giả. Viên Liễu Phàm tiên sinh cải đổi vận mạng một cách không dễ dàng gì. Về sau khi đọc đến đoạn văn này tôi sẽ đề tỉnh cho quý vị. Tôi khi cải đổi vận mạng của mình, tôi rất may mắn, tôi so với ông thuận lợi hơn rất nhiều. Nguyên nhân là bởi tôi trước sau đều không rời thầy, thầy thường ở bên cạnh đốc thúc, chỉ dạy, điều này mang lại lợi ích rất lớn. Tôi học cùng Chương Gia đại sư 3 năm, học cùng thầy Lý 10 năm, 13 năm này tôi luôn ở bên cạnh thầy. Điều này có được lợi ích vô cùng lớn. Tôi lúc đó chung quy vẫn còn trẻ tuổi, cho dù đã rất dụng công nhưng vẫn không đạt được cái tiêu chuẩn mà người xưa nói. Bản thân tôi đã rất dụng công nỗ lực, cho dù đã cố hết sức thì điểm số cũng không vượt quá 60 điểm, cũng chỉ đủ điểm đậu mà thôi. Hiện tại đại khái có thể đạt được tám, chín mươi điểm. Hiệu quả ngày càng rõ ràng, cái sự việc này, cổ đại đức nói chính là “chân can (tức chân thành)”. Tôi tổng hợp tâm đắc của bản thân sau 50 năm học Phật viết ra 20 chữ. Có người hỏi tôi: Pháp sư, ngài tu như thế nào, dạy người ra sao? Tôi đều là ở trong 20 chữ “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”. Mười chữ này là dụng tâm. Bất luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên. Nhà Phật nói chữ duyên là đối với người, đối với sự; hoàn cảnh nhân sự là dùng chữ duyên để nói, hoàn cảnh vật chất là nói đến cảnh giới, thuận cảnh hay nghịch cảnh là nói về hòan cảnh vật chất, còn thiện duyên hay ác duyên là nói về hoàn cảnh nhân sự. Chúng ta cần phải trong những cảnh duyên đó mà tôi luyện bản thân, nhất định phải lấy tâm chân thành mà xử sự, đối người, tiếp vật. Người khác dùng tâm hư vọng đối với ta, không có quan hệ, đó là anh ta, cùng ta không liên can. Thậm chí là anh ta hủy báng ta, vũ nhục ta, hãm hại ta, cùng ta không liên can. Bản thân chúng ta chỉ dùng tâm chân thành để đối người. Làm được như vậy thì sẽ chuyển họa thành phước, chuyển được rất nhanh, tai tiêu phước đến.
  Xử sự đối người tiếp vật cần phải dùng tâm thanh tịnh, thanh tịnh tức là một trần cũng không nhiễm, thuận cảnh tuyệt không khởi tâm tham luyến, ác cảnh không khởi tâm sân hận; phải luôn giữ được tâm thanh tịnh, bình đẳng của chúng ta, tự nhiên sẽ sinh trí huệ. Tâm ái hộ nhất thiết chúng sanh tự nhiên sinh ra, đó gọi là từ bi tâm. Từ bi tâm phải hai, ba năm mới có hiệu nghiệm. Lúc trước, tôi có đọc truyện ký của Ấn Quang đại sư, căn phòng khi đại sư mới ở, trong đó có rất nhiều muỗi, ruồi, bọ chét, chúng gây nhiều trở ngại. Thị giả của đại sư, tức người chăm sóc ông, muốn thanh trừ bọn chúng, đem bọn chúng đuổi đi hết. Đại sư nói: không cần, trong nhà có con vật, cho thấy đức hạnh tu hành của chúng ta chưa đủ, cho nên không thể cảm động được chúng, vì vậy không cần đuổi chúng đi. Sau khi đại sư 70 tuổi, trong phòng ở của Ngài muốn tìm một con cũng không thấy, quả nhiên chúng đã dọn nhà rồi, thuật ngữ trong nhà Phật gọi là “thiên đan (chuyển đến nơi khác)”, những con vật này đã chuyển đi rồi. Ấn Quang đại sư là sau 70 tuổi, tôi hiện tại cũng đã qua 70 tuổi rồi, hai năm gần đây, tôi rất hoan hỷ vì đã có hiệu quả, căn phòng tôi ở cũng có kiến, gián; cũng thường hay thấy; nhưng trong hai năm gần đây đã dần dần ít đi. Tôi ở tại một địa phương ở Toowoomba cũng đã được 1 năm 8 tháng, lúc mới mua nó, kiến rất nhiều, còn có gián, côn trùng cũng rất nhiều. Sống trên núi với tôi còn có hai vị đồng tu, tôi nói với họ nhất định không được giết chúng. Đối với những động vật nhỏ này cần phải dùng tâm thanh tịnh, dùng tâm cung kính mà đối đãi. Không những không được giết những con kiến nhỏ này, mà ngay cả ý niệm làm hại chúng cũng phải đoạn sạch. Khi nhìn thấy chúng, chúng ta phải chắp tay lại, cung kính mà nói “bồ tát kiến, bồ tát gián”, chúng ta phải dùng cái tâm này mà đối với chúng. Nói với chúng rằng: môi trường sống của chúng ta không giống nhau, bên trong căn phòng này là chỗ của chúng tôi, còn bên ngoài căn phòng này là môi trường sống của các bạn. Hy vọng chúng ta có thể đối xử hòa hài với nhau, hai bên không quấy nhiễu nhau, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Phải thường dùng cái tâm như vậy mà đối đãi với chúng, khuyến miễn chúng. Một năm rưỡi sau, tôi thấy kiến đã ít đi chín mươi phần trăm, hiện tại vẫn còn nhưng rất ít, chứ không như lúc trước chúng kéo đàn kết bè lại. Tôi nói với mọi người rằng, chúng ta nỗ lực thêm hai năm nữa, có lẽ hoàn toàn không còn nữa. Phải dùng tâm yêu thương chân thành như vậy để đối với những động vật nhỏ, không chỉ đối với động vật nhỏ mà ngay cả với thực vật cũng không ngoại lệ. Trong hoa viên của chúng ta có rất nhiều cỏ, nhiều cây cối, còn có rau nữa. Trên núi, chúng ta trồng rất nhiều rau, chúng ta cũng phải dùng tâm yêu thương để đối đãi nó, để chiếu cố nó. Hoa nở rất đẹp, cũng tỏa ra rất nhiều hương. Những loại cây cối, rau củ này sinh trưởng rất tốt. Chúng ta không cần dùng phân bón, cũng không cần dùng đến thuốc trừ sâu, hoàn toàn không cần, chỉ cần dùng tâm yêu thương để bảo hộ chúng. Có cảm ứng, ngay cả cây cối hoa cỏ cũng đều có cảm ứng, điều này khiến chúng ta nghĩ đến một truyền thuyết thời xưa “sinh công thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu”, ngay cả đá cũng cảm động. Chúng ta hiện nay vẫn chưa có được cái cảm ứng này. Hiên tại, tôi chỉ mới có sự tương giao với thực vật, cùng thực vật có sự cảm ứng, còn với đất đá thì vẫn chưa có. Công phu của Sinh công so với tôi đã cao hơn một bậc. Tôi vẫn chưa đạt đến công phu của ông ấy. Đây đều là muốn nói với chư vị rằng “mệnh do mình tạo, phước do mình cầu”. Trong cuộc đời tôi, đây là điều tôi mà thể nghiệm được trong suốt 50 năm học Phật, vận mạng đã hoàn toàn chuyển đổi được. Tuy rằng không thể nói là đạt được đại tự tại, đại viên mãn, nhưng cũng đã tiếp cận được đến cái gọi là tự tại, viên mãn; có tín tâm là sẽ đạt được.
 Phía sau, trên văn tự viết: [Thi Thư sở xưng, đích vi minh huấn], đây là những giáo huấn rất rõ ràng, minh bạch được nói đến trong các tác phẩm của Cổ Thánh Tiên Hiền, chúng ta cần phải tin tưởng.
 [Ngã giáo điển trung thuyết], “ngã” là chỉ cho Vân Cốc thiền sư, ông là người xuất gia. “Ngã giáo” là chỉ Phật giáo. Trong kinh điển Phật giáo có nói: [cầu phú quý đắc phú quý, cầu nam nữ đắc nam nữ, cầu trường thọ đắc trường thọ], phàm phu chúng ta không thể vô cầu.
 Tôi lúc mới học Phật, trong tâm cũng có mong cầu. Chương Gia đại sư nhìn thấy được đã dạy tôi: “Phật thị môn trung hữu cầu tất ứng”. Đây là lão nhân gia đã dạy cho tôi phương pháp để cầu. Viên Liễu Phàm là do Vân Cốc thiền sư dạy cho cách cầu, còn phương pháp của tôi là do Chương Gia đại sư truyền cho tôi. Ngôn ngữ so với Vân Cốc thiền sư thì đơn giản hơn nhưng lại vô cùng có hiệu quả. Ngài dạy cho tôi: khi ông dùng chân tâm để cầu mà không có cảm ứng, khi cầu mà không có cảm, đây là nguyên nhân gì? Đó là do nghiệp chướng của ông quá nặng, chướng ngại không phải ở phật pháp, không phải tại bên ngòai mà chính là từ trên thân chúng ta, do bản thân chúng ta có nghiệp chướng. Chỉ cần đem nghiệp chướng tiêu trừ hết thì cảm ứng liền hiện tiền, hữu cầu tất ứng.
 Tôi lại hỏi ông, hướng đến lão sư mà thỉnh giáo, tôi hỏi: nghiệp chướng làm sao tiêu trừ? Ông nói với tôi: sám hối. “Sám trừ nghiệp chướng”, đây cũng là điều mà Phổ Hiền bồ tát trên kinh Hoa Nghiêm đã nói. Sau đó lại dạy cho tôi làm sao để sám hối? Tuyết đối không phải đi lạy Lương Hoàng sám, lạy Thủy sám, không phải làm cái việc này. Cho nên, vị thầy mà tôi gặp được, chân thật là một vị thầy giỏi. Ông nói: Phật pháp không tại hình thức, mà ở thực chất. Cái gì gọi là thực chất? chính là về sau không làm nữa. Ví như chúng ta khởi lên ý niệm không tốt, nói những lời không tốt, làm những việc không tốt, hiện tại biết đó là lỗi, là sai rồi thì về sau sẽ không phạm lại sai lầm đó nữa, đó mới gọi là chân thật sám hối, như vậy mới có thể tiêu trừ nghiệp chướng.
 Giả như bạn ở trước Phật, Bồ Tát tụng kinh niệm chú, cho là đã sám hối rồi, sau khi sám thì lại tạo, tạo xong lại sám. Như vậy chẳng có lợi ích gì, hòan toàn sai rồi. Thầy đã nói với tôi lời thật, phật pháp trọng thực chất, không trọng hình thức. Thí như nói đến giới luật, ông vô cùng coi trọng giới luật. Tôi theo học với ông ba năm, ông đề cập đến sự quan trọng của giới luật, tổng cộng hết 10 lần, khiến ấn tượng của tôi rất sâu.
 Làm sao để trì giới? Ông nói với tôi: không cần phải đến bất cứ nơi nào cầu pháp sư thọ giới. Ông nói: không cần thiết, vô dụng. Tôi hỏi: vậy phải làm sao? Học một điều, làm được một điều, vậy thì điều này bạn giữ được. Thí như không sát sanh, bạn chân chánh làm đến được, đối với tất cả sinh vật bạn tuyệt đối không khởi lên ý niệm sát hại, như vậy bạn đối với cái giới này đã giữ được viên mãn, mà không nhất định phải đi thọ giới. Đến giới đàn thọ giới, thọ giới rồi, bạn lại không làm được, như vậy bạn hoàn toàn đã phá giới, phạm giới rồi, không phải là tội càng thêm tội hay sao?
 Lão sư đã dạy cho tôi chính là cái phương pháp này; học một điều, làm một điều, làm được rồi thì chính là chân chánh trì giới. Cho nên tôi học Phật, đắc lực là ở sự giáo huấn của những đại thiện tri thức. Vào năm ngoái, tôi gặp tổng thống Nathan của Singapore, chúng tôi cùng nhau ăn cơm. Tổng thống Nathan là giáo đồ của Ấn Độ giáo (đạo Hindu). Ông nói với tôi: phật giáo trọng thực chất, không trọng hình thức. Tôi nghe xong, ngồi ngẩn ra. Câu nói này mấy chục năm trước là Chương Gia đại sư đã nói với tôi. Trong suốt mấy chục năm qua, tôi chưa từng nghe thấy ai nhắc đến câu này cả. Tôi nghe tổng thống Nathan nói vậy, liền biết ông là người “trong nghề”, người này không đơn giản. Cho nên tôi đối với ông rất kính trọng.
 Chúng ta phải hiểu được rốt cuộc làm sao để cầu, chân chánh tiêu trừ nghiệp chướng rồi thì hữu cầu tất ứng. Nhưng nếu nghiệp chướng tập khí quá nặng thì sao? cái này không đáng lo, chúng ta cần phải nhẫn nại, cần thời gian để tiêu trừ. Liễu Phàm tiên sinh dùng thời gian mấy mươi năm, tôi cũng dùng từ hai mươi đến ba mươi năm, cho nên bạn không có khỏang thời gian đủ dài thì không được, không phải nói đoạn thì có thể đoạn được, nào có dễ dàng như vậy chứ.
 Tập khí của chúng ta nhất định phải đè phục nó xuống, phải thường thường cảnh tỉnh bản thân. Cho nên cổ nhân rất coi trọng việc đọc tụng, điều này rất có đạo lý. Bản thân tôi một đời này có thể thành tựu, tôi biết được đó là nhờ tôi ở trên giảng đài. Hơn bốn mươi năm qua, tôi không một ngày nào gián đoạn trên giảng đài. Ngày ngày giảng kinh, ngày ngày khuyên người khác, cũng chính là ngày ngày khuyên chính mình. Người khác có được lợi ích hay không, tôi không biết, nhưng bản thân tôi chân thật có được lợi ích. Đây chính là điều trong nhà Phật thường nói: “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Nếu như không được huân tu trong thời gian dài, làm sao có được thành tựu. Tập khí xấu của chúng ta cũng là do vô lượng kiếp huân tập mà thành, đều là trường thời huân tu. Hiện tại chúng ta cần phải đem những tập  khí xấu, tập khí ác này tiêu trừ, cần phải học tập Cổ Thánh Tiên Hiền, học tập Phật Bồ tát, điều này vẫn là cần phải có thời gian. Cho nên nếu như không có thời gian tương đối dài, cần có quyết tâm, có nỗ lực, đọan trừ tập khí của mình mới có thể viên mãn thành tựu.

 


Ngủ rồi be-buti

Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 1)
2013-05-30 14:24:10
(PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 16/04/2001
 Các vị đồng tu, xin chào mọi người!  
          Hôm nay, chúng tôi có thể tại Nhiếp Ảnh Bằng của đài truyền hình Phụng Hoàng gặp mặt mọi người, lại nói về Liễu Phàm Tứ Huấn, quyển sách này là khi tôi 26 tuổi, lúc vừa mới tiếp xúc với Phật Pháp; là quyển sách đầu tiên tôi đọc. Nó có ảnh hưởng đến tôi vô cùng lớn, có thể nói là ảnh hưởng đến cả đời tôi. Đối với bộ sách này, tôi vô cùng yêu thích, cũng thường đọc tụng, và cũng đã giảng qua không ít lần. Chỗ giảng của trước kia so với chỗ giảng của hiện tại, cảnh giới đương nhiên có những điểm không giống nhau. Nhưng bài giảng trước vẫn còn có thể làm y cứ để tham khảo.
 Liễu Phàm tiên sinh, ông họ Viên, tên của ông gọi là Hoàng, Hoàng (nghĩa là màu vàng) trong đỏ vàng xanh trắng đen, tự là Khôn Nghị. Đương thời, ông là người sông Ngô tỉnh Giang Nam. Ông sống vào thời vua Minh Thế Tông. Thế Tông là vị vua đời thứ 12 nhà Minh, gia tĩnh năm thứ 14, công nguyên năm 1535. Như vậy, quý vị đã có những hiểu biết tương đối rõ ràng về ông, khoảng cách của ông so với hiện tại chúng ta đã hơn 500 năm. Sau quyển sách “Liễu Phàm tứ huấn” còn có phụ thêm bài văn “Du tịnh ý công ngộ Táo Thần ký”, cũng là một môn công khóa rất đáng cho chúng ta học tập. Du Tịnh Ý sinh vào năm Gia Tĩnh thứ 4, lớn hơn ông Liễu Phàm 10 tuổi. Hai người họ gặp nhau vào năm Đinh Sửu, đó là lần thứ hai ông Liễu Phàm đi thi Tiến sĩ, năm đó ông 43 tuổi, còn Du Tịnh Ý Công 53 tuổi, hai người là đồng khoa, lần này, Du Tịnh Ý thi đậu còn Liễu Phàm thi không đậu. Tiên sinh Viên Liễu Phàm phải đợi đến năm Bính Tuất, lúc ông 52 tuổi mới thi đậu Tiến Sĩ.
 
  Chúng ta từ trong truyện ký cả đời ông mà xem thấy, việc sửa sai tự làm mới là một quá trình đầy khó khăn, không phải là việc dễ dàng. Đặc biệt là thời gian đầu, 20 năm trước của ông rất khó khăn, về sau này, khi công phu đã thành thục rồi thì việc đoạn ác tu thiện càng ngày càng dễ làm hơn, chúng ta hãy xem bổn văn.
 [Dư đồng niên tang phụ]
 “Dư” là tiên sinh Viên Liễu Phàm tự xưng, “đồng niên” là chỉ lúc ông còn nhỏ, căn cứ vào chương “học lập mệnh” mà xem, chúng ta biết được ông chịu tang cha khẳng định là trước 15 tuổi, làm sao biết được? Bởi vì ông gặp Khổng tiên sinh vào năm 15 tuổi, cho nên mới chắc chắn là trước 15 tuổi.
 [Lão mẫu mệnh khí cử nghiệp học y]
 “Cử nghiệp” chỉ việc đọc sách cầu công danh, mẹ ông nói với ông, không nhất thiết phải học hành cầu công danh, đồng thời khuyên ông học ngành y.
 [Khả dĩ dưỡng sanh, khả dĩ tế nhân], học y có chỗ lợi, vừa có thể nuôi sống mình, vừa có thể cứu giúp nhiều người bệnh khổ.
 [Khả tập nhất nghệ dĩ thành danh, nhĩ phụ túc tâm dã]
 Nếu như con có thể chân thật học tốt nghề y này thì tương lai có thể trở thành danh y, đây cũng là nguyện vọng của cha con đối với con.
 [Hậu dư tại Từ Vân, ngộ nhất lão nhân giả, tu nhiêm vĩ mạo, phiêu phiêu nhược tiên, dư kính lễ chi].
 Về sau, chữ “hậu” là chỉ năm ông 15 tuổi, năm 1549, ông tại chùa Từ Vân gặp được một lão nhân. “Tu nhiêm vĩ mạo”, “tu nhiêm” là chỉ râu tóc rất dài, tướng mạo vô cùng tốt đẹp, xem thấy “phiêu phiêu nhược tiên” là chỉ dáng vẻ không giống như người thường. Ông sau khi nhìn thấy thì đối với vị lão nhân đó vô cùng lễ kính, từ đó có thể thấy, tiên sinh Viên Liễu Phàm từ nhỏ đã được dạy dỗ rất tốt, tuy rằng tuổi chỉ mới xấp xỉ 15 nhưng cách cư xử đối người tiếp vật lại rất đúng quy củ. Điều này mới có thể khiến người khác hoan hỷ, khiến người khác yêu quý.
 [Ngữ dư viết], đây là chỉ lão nhân đó nói với ông: “tử sĩ lộ trung nhân giả (con là người trong sĩ lộ)”, lão nhân này giống như là người biết xem tướng, vừa nhìn thấy liền nói, con là người có mệnh làm quan.
 [minh niên tức tiến học], “tiến học” là chỉ sang năm  ông có thể thi đậu tú tài.
 [hà bất độc thư], tại sao con không đọc sách vậy? con lang thang đến đây, sao không đọc sách?
 [dư cáo dĩ cố], ông liền đem việc mẹ ông giáo huấn, không muốn ông đọc sách mà học y trình bày ra, ông sở dĩ đi lang thang bên ngoài là vì muốn hái thuốc, bởi vì 15 tuổi học y, đây nhất định là học sinh. Hoặc là theo học với danh y, hoặc là học trò trong các tiệm thuốc. Đây đều là những điều mà chúng ta có thể tưởng tượng đến. Cho nên ông đã đem nguyên cớ báo cáo với vị đạo trưởng này.
 [tịnh khấu lão giả tính thị lí cư], nghĩa là hướng lão nhân thỉnh giáo quý danh? và từ nơi nào lại đây?
 [Viết: ngô tính Khổng, Vân Nam nhân dã], lão nhân này nói ông họ Khổng, ông là người Vân Nam.
 [đắc Thiệu Tử Hoàng Cực Số chánh truyền], tức là quyển Hoàng Cực Số chánh truyền của ngài Thiệu Khang Tiết, hiện tại tác phẩm này vẫn còn được lưu giữ trong “Tứ Khố Toàn thư”. Tôi cũng đã từng xem qua vài lần nhưng thực tại mà nói, thì xem không hiểu, hoàn toàn thuộc về số học cao đẳng, trong quyển sách này không chỉ có thể nói về vận mệnh của một con người, vận mệnh của quốc gia, mà còn cả vận mệnh của thế giới; hòan toàn dựa theo môn bốc số trong “Kinh Dịch” mà đoán định.
 [Số cai truyền nhữ], từ trên định số mà nói thì ta nên mang phương pháp này truyền cho con. Lão nhân là lần đầu tiên gặp mặt Viên Liễu Phàm, làm sao biết có thể đem nó truyền lại cho ông? Ở trong này có đại học vấn. Vấn đề này rất giống với cách truyền đạo của các tổ sư đại đức của tông môn giáo hạ trong nhà Phật.
 [Dư dẫn chi quy, cáo mẫu]. Liễu Phàm tiên sinh liền dẫn lão nhân về nhà gặp mẹ mình và giới thiệu ông với mẹ.
 [Mẫu viết: thiện đãi chi, thí kỳ số, tiêm tất giai nghiệm], mẫu thân nói, phải chiêu đãi lão nhân thật tốt và thử bói một quẻ xem có linh nghiệm hay không? Kết quả là bói điều gì cũng đều linh nghiệm.
 [Dư toại khởi độc thư chi niệm], từ chỗ này, ông đối với sự bói toán của lão nhân, ông có lòng tin, như thế là ông liền khởi lên ý niệm đọc sách.
 [Mưu chi biểu huynh Thẩm Xứng], tức là cùng với anh họ của ông thương lượng. Biểu huynh nói:
 [ngôn Úc Hải Cốc tiên sinh, tại trầm hữu phu gia khai quán, ngã tống nhữ kí học thậm tiện, dư toại lễ Úc vi sư ].
 Anh họ của ông dẫn ông đến chỗ của Úc Hải Cốc tiên sinh, Úc tiên sinh tại chỗ đó dạy tư thục, “khai quán” là chỉ cho việc dạy tư thục, Thẩm tiên sinh dẫn ông đến nơi đó đăng kí học, Viên Liễu Phàm tiên sinh liền bái Úc Ngũ Cốc tiên sinh làm thầy.
 [Khổng vi dư khởi sổ, huyền khảo đồng sanh đương thập tứ danh, phủ khảo thất thập nhất danh, đề học khảo đệ cửu danh].
 Khổng tiên sinh bói cho ông Viên Liễu Phàm một quẻ, ông nói: sang năm ông lên huyện thi tú tài, thi huyện đứng thứ 14, thi phủ đứng thứ 71, đề học đứng thứ 9. Đề học là thi tỉnh, lúc đó thi tú tài phải đậu cả ba cửa này.
[minh niên phó khảo]
 Sang năm đi thi, “minh niên” là chỉ năm ông 16 tuổi, năm 16 tuổi ông đi thi quả nhiên ông thi đậu, thứ hạng hoàn toàn tương hợp, “minh niên phó khảo, tam xứ danh số vi hiệp”,  có thể thấy công phu đoán mệnh của Khổng tiên sinh rất giỏi, rất cao minh, ông hoàn tòan không phải là những thuật sĩ giang hồ. Ông chân chánh là chuyên gia số thuật có thực học, là chuyên gia giảng về mệnh lý của Trung Quốc. Ông ấy là chuyên gia chân thật chứ không phải giả danh.
 [phục vi bốc chung thân hưu cữu], sau khi đã thấy linh nghiệm như vậy, ông thỉnh lão tiên sinh đoán quẻ cho cả đời ông, về cát hung họa phước.
 [ngôn: mỗ niên khảo đệ ki danh, mỗ niên đương bỗ lẫm].
 “Lẫm” là một loại cấp bậc trong Tú tài, tương đương với hiện tại chúng ta là học sinh công phí, (tức được học bổng). Lẫm là lẫm mễ (chỉ lương bổng cấp bằng gạo), thứ hạng của nó có giới hạn nhất định, tất phải có hữu khuyết (thi đậu), xuất khuyết (thi không đậu). Thứ tự khảo thí trong tú tài là cao nhất, sau đó là danh sách bổ sung, bổ lẫm.
 [mỗ niên đương cống]
 Cống sinh so với lẫm sinh cao hơn một bậc, nhưng cũng đều thuộc tú tài, trong tú tài phân ra nhiều cấp bậc mà cống sinh là cao nhất, thứ kế là lẫm sinh.
 [cống hậu mỗ niên]
  Sau khi ông làm cống sinh, “mỗ niên”-vào năm nào đó, cống sinh là người có tư cách vào học ở thái học. Cho nên lúc đó vào Thái học, thái học là trường đại học do nhà nước lập nên. Ngày trước cả nước chỉ có một trường, gọi là Quốc Tử Giám. Trường Thái học đó luôn được đặt ở thủ đô, ở kinh thành. Đời Minh có hai trường Quốc Tử Giám, nguyên nhân như thế nào vậy? Khi Minh Thái Tổ dựng nước đã đóng đô ở Nam Kinh, cho nên ở Nam Kinh có trường Quốc Tử Giám, đến thời Minh Thành Tổ, ông lại dời đô về Bắc Kinh, nên ở Bắc Kinh cũng có một trường Quốc Tử Giám. Vì thế vào thời nhà Minh, trường đại học do đất nước lập biến thành có hai cái. Đây là kiến thức thông thường mà chúng ta phải biết. Từ cống sinh trở lên mới có tư cách đến học ở Quốc Tử Giám. Đây là vào 1 năm sau khi đỗ cống sinh, ông được chọn làm huyện trưởng Tứ Xuyên. “Thái doãn” nghĩa là huyện trưởng.
 [tại nhiệm tam niên bán tức nghi cáo quy], ông làm quan được ba năm rưỡi thì liền cáo lão vê quê, tại sao vậy?
 [ngũ thập tam tuế bát nguyệt thập tứ nhật sửu thời] (Năm 53 tuổi vào giờ sửu ngày 14 tháng tám).
 Vân Cốc thiền sư có thể đoán định được một cách chuẩn xác như thế.
 [đương chung ư chính tẩm], ông chết tại nhà, thọ mạng của ông đã đến.
 [tích vô tử], trong mạng của ông không có con trai.
 [dư bị lục nhi cẩn ký chi], tôi cẩn thận tỉ mỉ ghi chép những điều đó lại. Từng điều, từng điều một mà Khổng tiên sinh nói ông đều ghi chép lại, đây là sự việc của cả một đời ông.
 [tự thử dĩ hậu, phàm ngộ khảo giáo kỳ danh sổ tiên hậu, giai bất xuất Khổng công sở huyền định giả], “huyền” là chỉ sự đoán định của Khổng tiên sinh. Về sau, mỗi năm đi thi xếp hạng của ông đều đúng như Khổng tiên sinh đã đoán định, tơ hào không sai. Ở đây có 1 điều không đúng.
 [độc toán dư thực lẫm mễ cửu thập nhất thạch ngũ đẩu đương xuất cống] (Chỉ có một lần đoán là khi nào số gạo cấp lương lẫm sinh của ta đủ 91 thạch 5 đấu sẽ được bổ làm cống sinh).
 Điều này có nghĩa là lúc ông làm lẫm sinh, ông lãnh được một số thóc do nhà nước cấp, phần thóc do nhà nước cấp này, tương đương với ngày nay chúng ta gọi là lương bổng. Ông lãnh được bao nhiêu thóc? Ông phải lãnh đủ số 91 thạch 5 đấu, ông mới xuất cống, điều này kể từ lúc ông làm lẫm sinh lên cống sinh.
 [cập thực mễ thất thập dư thạch, Đồ Tông sư tức phê chuẩn bổ cống, dư thiết nghi chi] (nhưng khi ta mới lãnh hơn 70 thạch thì Đồ tông sư đã phê chuẩn cho ta được bổ cống sinh, ta liền có nghi hoặc.)
 Khi gieo quẻ đoán mệnh cho ông thì khi hưởng được 91 thạch 5 đấu ông mới được lên cống sinh. Nhưng khi ông mới lãnh được hơn 71 thạch thì Đồ tông sư, “tông sư” là chỉ quan Đề học đương thời, quan giáo học của một tỉnh, tương đương với ti trưởng giáo dục ngày nay. Ông là người phê chuẩn việc bổ cống sinh, bổ cống sinh còn gọi là xuất cống. Trong tâm ông Viên Liễu Phàm có nghi hoặc, tại sao điều này lại không đúng? lần tính toán này xem ra không chuẩn xác?
 [hậu quả vi thự ấn dương công sở bác]
 Đồ tông sư phê chuẩn bổ cống, trên văn kiện đã ghi rõ, “bị thự ấn”, thự ấn là chỉ cho vị quan thay thế tạm thời. Vị Dương tiên sinh thay thế tạm thời này đã bác bỏ ông, không phê chuẩn cho ông bổ cống sinh.
 [trực chí Đinh Mão niên]
 Năm Đinh Mão là Minh Mục Tông Long Khánh nguyên niên. Tiên sinh Liễu Phàm lúc đó 33 tuổi. Các vị nghĩ xem, ông ấy là 16 tuổi thi đỗ tú tài, đến năm 33 tuổi mới được lên cống sinh, mười mấy năm, thời gian dài như vậy mới chờ đến năm Đinh Mão.
 [Ân Thu Minh Tông Sư kiến dư tràng trung bị quyển, thán viết: ngũ sách tức ngũ thiên tấu nghị dã]
 
Quan Đốc học lúc bấy giờ, chính là trưởng quan Ân Thu Minh tiên sinh chủ trì giáo học, trong lúc rảnh rỗi, ông xem lại những bài thi của các vị thi tú tài đợt trước, trong số những bài này, có những bài thi không đậu, ông lấy ra xem lại, đột nhiên xem thấy bài thi của tiên sinh Viên Liễu Phàm, bài làm vô cùng hay, ông cảm thán mà nói rằng: 5 bài này, người làm 5 bài này cũng như viết tấu chương. Kiến giải, văn chương của người này đều rất hay, có thể sánh với những bài tấu nghị của quan đại thần dâng lên vua.
 [khởi khả sử bác hiệp yêm quán chi nho, lão ư song hạ hồ], “bác” là chỉ cho kiến văn quảng bác, học thức của ông rất phong phú, “hiệp” là nói, ông đối với kiến giải, hiểu biết rất là thấu triệt, “yêm” là chỉ văn nghĩa của ông sâu sắc, công phu nhất “quán”, văn chương như thế này, rất khó xem thấy được. Ông nói không thể để cho những người có học vấn, có đức hạnh, có năng lực như vậy bị mai một theo thời gian, cả đời chỉ là một tú tài nghèo.
 [toại ư huyện thân văn chuẩn cống], sau đó mời ông đi bổ cống sinh, lần này thì phê chuẩn rồi.
 [liên tiền thực mễ kế chi, thật cửu thập nhất thạch ngũ đẩu dã].
  Khổng tiên sinh đoán mệnh một chút cũng không sai, xác thực là số thóc ông ăn từ lúc đỗ lẫm sinh là 91 thạch 5 đấu, ông mới được bổ chức cống sinh.
 [dư nhân thử ích tín tiến thối hữu mệnh, trì tốc hữu thì, đạm nhiên vô cầu hỹ].
 Đến lúc này thì hòan toàn khẳng định, tin tưởng mỗi một người đều có vận mệnh. Vận mệnh diễn ra nhanh hay chậm đều có lúc có thời, cưỡng cầu cũng không được, vì vậy tâm ông định lại, vọng niệm cũng không có, chân chánh làm được “ư nhân vô tranh, ư thế vô cầu” (đối với người không tranh, đối với đời không mong cầu). Cho nên tôi nói ông là một phàm phu tiêu chuẩn. Chúng ta là phàm phu không đúng tiêu chuẩn, chúng ta một ngày từ sáng đến tối tòan là suy nghĩ vọng tưởng, luôn luôn là vọng cầu mà cầu không được. Nếu trong mạng có thì đến cuối cùng sẽ có, nếu trong mạng không có mà cứ vọng cầu, thì nào có cầu được?
 [cống nhập Yến Đô], làm cống sinh, đến Yến đô, đến Bắc Kinh. Đến Bắc Kinh, đương nhiên cũng có thể, ông nghĩ muốn xem trường đại học quốc gia đó. Tôi nghĩ ông ấy nhất định đi đến hai trường đại học đó tìm hiểu một chút, sau đó đến cuối cùng là chọn trường nào để học, điều này chúng ta có thể nghĩ đến.
 [lưu kinh nhất niên, chung nhật tĩnh tọa, bất duyệt văn tự], (ở lại kinh đô một năm, suốt ngày tĩnh tọa, không màng tới việc học hành.)
 Tại sao vậy? Một đời đều đã có trong mệnh, nghĩ tưởng cũng uổng công. Cho nên ông đem vọng tưởng ngừng lại. Thực tại mà nói, ông đã bị vận mệnh câu thúc, không biết phải làm thế nào. Chúng ta xem thấy cái tình cảnh này của ông Viên Liễu Phàm, cũng rất đồng tình, cũng thật xót thương.
 
[Kỷ Tỵ quy], “Kỷ Tỵ” là năm thứ hai, năm thứ hai từ Bắc Kinh trở lại phương Nam.
 [Du Nam Ung], thời gian này, Liễu Phàm tiên sinh 35 tuổi, Nam Ung chính là Quốc Tử Giám ở Nam Kinh. Có thể thấy ông đã điều tra rất rõ ràng, ông chọn đại học ở Nam Kinh và muốn đến trường này học tập.
 [vị nhập giám], vẫn chưa nhập học, vào trước thời điểm nhập học.
 [tiên vấn Vân Cốc Hội thiền sư], vẫn chưa nhập học, nghe nói đến núi Thê Hà, núi Thê Hà ở Nam Kinh. Hiện tại ở Nam Kinh còn có chùa Thê Hà. Thế là, ông đến núi Thê Hà bái kiến Vân Cốc thiền sư. Vân Cốc là hiệu của thiền sư, pháp danh của ông là Pháp Hội nên ở đây xưng là “Hội thiền sư”, đây là cách tôn xưng ông. Vân Cốc thiền sư là vị đại đức trong nhà Phật đương thời, là một vị cao tăng, lúc bấy giờ Vân Cốc thiền sư đã 69 tuổi, Liễu phàm 35 tuổi, Vân Cốc thiền sư hơn Liễu Phàm 34 tuổi.
  Liễu Phàm 35 tuổi đi bái kiến ông, đây cũng là lần đầu gặp mặt. Chúng ta từ đoạn sau của truyện ký xem thấy hành vi, lời nói của Vân Cốc thiền sư, thấy được đạo phong của ông. Ông là một người chân chánh khai ngộ. Tuy rằng còn nhỏ đã xuất gia, lúc xuất gia cùng với hiện tại đều làm kinh sám phật sự, nhưng kinh sám phật sự lúc đó cùng với chúng ta hiện nay tính chất hòan tòan không giống nhau. Sau đó ông giác ngộ được, những sự việc mà người xuất gia làm cùng với sinh tử, với xuất ly tam giới không có can hệ.
 Tôi không cho đó là việc mà người xuất gia làm, cái mà người xuất gia làm chỉ là duy trì đời sống sinh hoạt của mình mà thôi, cho nên sinh tử sự đại. 19 tuổi đã đi tham học, tầm sư học đạo, về sau xác thực là đã có thành tựu. Sau khi khai ngộ, ông ẩn giấu tài năng trong tự viện, chuyên hành khổ hạnh, những việc khó khổ mà người khác không làm thì ông làm. Về sau các danh sĩ, quan viên ở một số địa phương phát hiện ra ông, đây là một cao tăng chân chính ngộ đạo, cho nên đã giúp đỡ ông, hy vọng có thể khôi phục lại đạo tràng trên núi Thê Hà.
 Lão nhân gia ông hòan tòan không để ý đến danh văn lợi dưỡng. Ông giới thiệu một vị pháp sư khác làm trụ trì, làm phương trượng. Sau khi đạo tràng đã hưng thịnh, ông đến một nơi sau núi rất ẩn mật, kiến lập một chỗ tu nhỏ, nơi đó gọi là “Thiên Khai Nham”. Hiếm có người đặt chân đến, ông một mình ở nơi đó khổ tu. Tôi nghĩ, Liễu Phàm tiên sinh đi thăm viếng ông, nhất định là đến nơi này, Thiên Khai Nham. Tôi nghĩ nhất định phải là nơi này, bởi vì lúc đó pháp sư đã 69 tuổi mà đến năm 75 tuổi thì Ngài viên tịch, cũng chính là vào năm 1575, năm đó, tiên sinh Viên Liễu Phàm 41 tuổi. Vậy nên lúc Liễu phàm tiên sinh gặp ông, cho đến lúc ông viên tịch, thời gian cũng không lâu lắm, chỉ có 7 năm. Do đó, chúng tôi cho rằng ông ấy nhất định là ở Thiên Khai Nham của núi Thê Hà.
 Đại sư, bình thường khi tiếp đãi mọi người, bất kể là ai đến bái kiến ông, ông đều đưa cho họ một cái bồ đòan và mời họ ngồi ngay ngắn lên đó, rồi bảo họ tham cứu vấn đề “phụ mẫu vị sanh tiền bổn lai diện mục (nghĩa là lúc cha mẹ chưa sinh thì bổn lai diện mục là gì?)”, chỉ một câu này mà không nói thêm gì nữa, cả ngày ông không nói một câu, chỉ ở trong định. Liễu Phàm tiên sinh đi tham bái ông, đại khái cũng không ngoại lệ.
 [Ư Thê Hà sơn trung, đối tọa nhất thất, phàm tam trú dạ bất minh mục ] (ở trên núi Thê Hà, ngồi đối diện với thiền sư trong một căn phòng suốt ba ngày đêm mà không hề chợp mắt).
 Thiền sư cùng với Tiên sinh Viên Liễu Phàm, hai người họ ngồi trong thiền đường, ba ngày ba đêm mà không nói một câu.
 [Vân Cốc vấn viết: phàm nhân sở dĩ bất đắc tác Thánh giả, chỉ vị vọng niệm tương triền nhĩ. ] (Vân Cốc hỏi rằng: Sở dĩ con người không thể trở thành thánh nhân chỉ vì những vọng niệm lăng xăng trong lòng không ngừng. )
 Đặc biệt là người tu hành, người tu hành tại sao không thể thành tựu? Vì vọng niệm quá nhiều, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước quá nhiều nên tâm định không nổi.
 [nhữ tọa tam nhật, bất kiến khởi nhất vọng niệm, hà dã? ] (Ngươi ngồi ba ngày mà không thấy khởi lên một vọng niệm nào, làm sao mà làm được như vậy)
 Thật kì lạ! ngươi ngồi đây ba ngày mà ta “không thấy ngươi khởi một vọng niệm nào”, Vân Cốc thiền sư không thấy Liễu phàm tiên sinh khởi lên một vọng tưởng. Đây là nguyên do gì?
 Vân Cốc thiền sư cũng thật kỳ lạ! bình thường ông rất ít nói, nhưng khi gặp Viên Liễu Phàm, lại nói hơi nhiều, thật là không dễ! Đây là duyên phận rất đặc biệt. Chúng ta phải hiểu được đạo lý ở đây, giữa người và người xác thực là phải có nhân duyên. Viên Liễu Phàm gặp được thiền sư Vân Cốc mới có thể chuyển biến vận mệnh. “Thiên học lập mệnh” là do Vân Cốc truyền lại cho ông.
 [Dư viết: ngô vị Khổng tiên sinh tóan định, vinh nhục tử sanh, giai hữu định số, tức yếu vọng tưởng, diệc vô khả vọng tưởng. ] (Ta nói: Con vì được Khổng tiên sinh bói số mạng, sống chết vinh nhục đều do trời định sẵn. Dù muốn vọng tưởng cũng không thể thay đổi được)
 Lúc trước, khi tôi đọc đến câu nói này, tôi cho rằng lúc đó, Viên Liễu Phàm tiên sinh thực sự là một phàm phu tiêu chuẩn. Cũng không sai, cả đời ông, mỗi ngày trôi qua đều đúng như đóan định của vận mệnh, đến 53 tuổi thì thọ chung tại nhà, cả đời không có tội lỗi lớn, nên đời sau khẳng định không đọa vào 3 đường ác, đây là một phàm phu tiêu chuẩn. Vận mệnh của ông bị Khổng tiên sinh đóan định.
  “Vinh nhục tử sinh, giai hữu định số”. Câu nói này đồng thời cũng là nói với chúng ta, chúng ta cũng không ngoại lệ. Phàm là người, chỉ cần bạn có ý niệm thì bạn không thể không có vận số, cũng là nói, bạn không thể không có định mệnh nếu như bạn còn có vọng niệm. Nếu như bạn không có vọng niệm thì bạn có thể siêu thoát vận mạng. Liễu Phàm tiên sinh tuy có thể cải tạo vận mạng, nhưng ông chỉ có thể cải biến chứ không thể thoát khỏi.
 Vân Cốc thiền sư giỏi như vậy, tại sao ông không cao hơn một bước, đem phương pháp thoát khỏi vận mệnh dạy cho Viên Liễu Phàm? Đây chính là quan sát căn cơ thọ giáo; xem xem căn cơ của Liễu Phàm tiên sinh; thiên chất của ông.
 Có những cao tăng đạo đức, đều có năng lực quan sát, xem bạn là thượng căn, trung căn hay hạ căn mà tùy cơ thuyết pháp. Cho nên tất cả chúng sanh, hễ gặp được cao nhân thì không một ai mà không được lợi ích. Chúng ta xem thấy Liễu Phàm tiên sinh, ông là thuộc trung căn, không phải thượng căn. Đối với người trung căn, đương nhiên không thể nói thượng pháp, nếu nói thượng pháp thì ông không thể tiếp nhận nổi. Cho nên khi thuyết pháp, khế hợp căn cơ là điều vô cùng quan trọng. Pháp mà không khế cơ cũng như “nhàn ngôn ngữ”, điều này trong kinh Phật có nói. “Nhàn ngôn ngữ”, nói theo cách hiện nay là nói phí lời, lời nói vô ích. Cho nên cần thiết là phải khế cơ khế lý.
 Chúng ta cần phải tin tưởng một cách sâu sắc, bất cứ người nào cũng có vận mệnh, có định số, chỉ là bản thân họ không biết mà thôi. Bản thân không biết, câu này có nghĩa, bạn trong suốt cuộc đời nhất định cũng chỉ như kẻ mù mò mẫm mà thôi. Liễu Phàm tiên sinh được người đoán định, ông rất rõ ràng. Trong suốt một đời, phương hướng, mục đích sở hành của ông đều rất rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch, ông cứ chiếu theo mệnh lý mà sống. Còn chúng ta thật đáng thương, chúng ta không biết vận mệnh của mình, cho nên chúng ta như kẻ mù mò mẫm trong biển lớn tối tăm. Nếu như tùy thuận phiền não, trong lúc mê mờ, tạo tác quá nhiều tội nghiệp thì tội nghiệp đó sẽ làm tổn phước báu, làm giảm thọ mạng của chúng ta. Thông thường nói giảm thọ tức là giảm thọ mạng. Cái tình hình này trong xã hội hiện nay có thể nói là rất đúng. Nếu người có thiện căn phước đức sâu dày, tuy là không biết vận mệnh của mình, nhưng tâm địa của họ thiện lương, không có tâm tưởng sai quấy, hành vi đều giữ đúng quy củ, không làm những việc thương thiên hại lý, tổn người lợi mình. Tuy rằng không biết vận mệnh nhưng bản thân họ chính là đang tăng phước, đang tăng thọ cho mình, bất tri bất giác trong mạng lại tăng trưởng phước báu.
 Nhưng hòan cảnh xã hội của chúng ta hiện nay không tốt, đây là chỉ trong lịch sử từ xưa đến này, cả trong và ngoài nước đều chưa từng có qua. Hoàn cảnh sống, con người là phàm phu, không thể không chịu sự ảnh hưởng của hòan cảnh. Hòan cảnh bất thiện, chúng ta ngày ngày đều bị những cái bất thiện này ảnh hưởng. Điều này có nghĩa, cơ hôi tạo nghiệp của chúng ta ngày càng nhiều, càng lớn; vậy là bất tri bất giác mà tạo nghiệp. Cái sự việc này rất đáng sợ!
 Lúc trước, khi tôi cầu học, Thầy Lý có kể cho tôi một câu chuyện, không phải là nói với mình tôi mà là Người lên lớp giảng cho cả lớp nghe. Thầy giảng, lúc trước, tại một địa phương nọ, có xảy ra một án mạng trái nghịch luân lý, con giết cha. Cái sự việc này từ trước đến nay chưa từng có, đây là một việc lớn. Sự việc này được tâu lên vua, đương nhiên người con này bị xử tử hình. Nhà vua ban ra một mệnh lệnh, vị quan huyện ở đó bị cách chức điều tra. Vị huyện trưởng đã phạm phải lỗi lầm gì? Địa phương này là khu vực do anh cai trị, do anh giáo hóa, anh sao có thể giáo hóa ra cái loại người đại nghịch bất đạo như vậy. Vì giáo hóa không tốt, nên vị huyện trưởng bị cách chức. Quan tuần phủ ghi chép lỗi lầm, tuần phủ là quan tỉnh trưởng đương thời, ông ghi chép lại sự việc. Việc xử phạt vẫn còn tiếp diễn, triều đình lại hạ một mệnh lệnh nữa. Vào thời điểm đó, mỗi huyện đều có một bức tường, đem bức tường này phá đi một góc. Hoàng đế hạ lệnh đem bức tường phá đi một góc. Điều này có ý nghĩa gì? cái huyện này của các người có một người con đại nghịch bất đạo như vây, đây là điều sỉ nhục đối với người dân trong toàn huyện.
 Hiện tại chúng ta từ trên báo chí, tạp chí thường thường xem thấy, con cái giết cha, giết mẹ thật là quá nhiều. Giáo dục ngày xưa và ngày nay không giống nhau, chúng ta hiểu được tại sao xã hội ngày xưa có thể an định, thời gian an định thịnh trì kéo dài, nhân dân thực sự có được cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn. Hãy quay đầu nhìn lại ngày nay, bất luận là phú quý hay bần tiện, cho dù một người có tiền của vạn ức, liệu cuộc sống của họ có hạnh phúc hay không? không hạnh phúc. Có vui vẻ hay không? không vui vẻ. Cuộc sống của họ thật rất đáng thương, nói một cách khó nghe, đó thật sự không phải là cuộc sống của con người. Đến cuối cùng là nguyên nhân gì vậy? Chúng ta đã bao giờ suy nghĩ qua hay chưa?
 Ở đây đều có định số. Định số, chúng ta mỗi ngày khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều có gia giảm thêm bớt; mức độ của gia giảm thêm bớt không lớn, đại khái so với vận số không vượt quá nhiều. Cho nên thông thường đoán mệnh, có thể thấy, hầu như đoán được rất chuẩn xác. Nếu như ác niệm, thiện niệm, ác hạnh, thiện hạnh của chúng ta mức độ quá lớn, bạn có đại thiện hoặc giả là đại ác thì định số của bạn sẽ thay đổi. Nếu như bạn làm được điều thiện lớn, trong mạng của bạn không tốt sẽ biến thành tốt. Nếu như bạn tạo đại ác, trong mạng của bạn vốn là rất tốt, liền biến thành xấu.
 Phàm phu chúng ta có những cái không thể tránh được, nhất là trong xã hội hiện nay. Xã hội hiện đại, không thứ gì không dụ hoặc chúng ta, nhân tâm làm sao có thể định được. Cho nên ngày nay bất kể là tu hành hay học vấn, không dễ gì mà có được thành tựu. Có thể ở trong xã hội ngày nay mà học tập hay tu hành có thành tựu, đều là nhờ vào thiện căn phước đức nhân duyên quá lớn. Nếu không có thiện căn phước đức lớn, nhất định không có khả năng thành tựu. Bạn có thiện căn, bạn mới thấu rõ đạo lý; bạn có phước đức, bạn mới không bị động tâm. Đối với tất cả những dụ hoặc không hề khởi tâm động niệm. Đây là công phu chân thật; đây là phước đức chân thật.
 Cổ đại đức ngày xưa, trường học là đạo tràng để dạy học; Phật môn là nơi để tu hành. Tại sao lại chọn nơi thâm sơn cùng cốc không có người đến? Thực tại mà nói, mục đích là để ngăn cách với những dụ hoặc của xã hội bên ngoài, để tâm chúng ta dễ dàng định lại mà thôi.
 Hiện tại thì khó rồi, tôi học phật giảng kinh, tuy đã trải qua nhiều năm như vậy, đạo tràng Phật giáo có rất nhiều, nhưng tôi đều chưa đi đến. Ở Trung Quốc, tôi chỉ đi Cửu Hoa Sơn, Nga Mi sơn, mà hiện tại những đạo tràng này đều đã được mở đường quốc lộ, nên du khách đi lại rất thuận tiện, lúc trước thì rất khó khăn. Lúc nhỏ, tôi là người An Huy, nhà củ của tôi ở Lô Giang, nên không cách xa Cửu Hoa Sơn cho lắm. Tuy nhiên, lúc trước lên núi phải mất ba ngày, bây giờ ngồi xe chỉ mất 3 giờ. Lúc trước, muốn lên núi phải mất ba ngày, cho nên anh chân thật phải có thành ý. Còn có người tam bộ nhất bái nữa, đại khái là phải đi từ bảy ngày đến mười ngày, từ quê hương chúng tôi chiêm bái đến Cửu Hoa sơn với thái độ rất kiền thành (kiên trì và chân thành). Chọn nơi này, không chỉ giao thông không thuận tiện, người qua lại không nhiều, người muốn đến đây rất ít nên hòan cảnh nơi đây của chúng tôi rất yên tĩnh, không bị người ngoài quấy rầy. Hiện tại nơi đây đã mở đại lộ, trong chùa đều đã được lắp đặt máy truyền hình, vậy coi như xong, những ô nhiễm này đã xâm nhập đến nơi này rồi. Hiện tại tu đạo khó rồi. Quá khó, quá khó!
 Tôi ở nước ngoài nhiều năm như vậy, mãi cho đến năm nay, Chúng tôi mới chọn một thị trấn nhỏ ở vùng núi Toowoomba, Úc châu. Trên núi, cái thị trấn này, nhân khẩu chỉ có 8 vạn, hơn nữa người dân nơi đây vô cùng bảo thủ. Hiện tại mà nói thì đây là một nơi tốt, rất khó có được để học tập, để tu đạo. Không thể chọn lựa nơi đô thị vì đô thị mức độ dụ hoặc quá lớn. Nếu không có định lực thì quyết định không thể thành tựu. Ở một thế giới đô hội, bạn sao có thể tu hành?
 Năm 1977, tôi ở Hương Cảng giảng kinh, các đồng tu bên đó nói với tôi rằng, họ nói: Lão hòa thượng Hư Vân đã từng ở Hương Cảng. Các đồng tu Hương Cảng đã tha thiết mời lão hòa thượng ở lại Hương Cảng nhưng lão Hòa thượng nói rằng: cái địa phương này phồn hoa đô hội không thích hợp để tu hành, cho nên chỉ ở đó vài ngày rồi về lại Trung Quốc. Tại sao? sức dụ hoặc quá lớn, danh lợi sẽ khiến tâm người dao động, do đó không phải là nơi để tu hành.  
 Nếu như giống với tâm thái này của Liễu Phàm tiên sinh, thế thì được. Ông đã biết được vận mệnh của mình, đã được đoán định rồi, khởi vọng tưởng cũng là uổng công, tâm của ông liền định lại. Lời giải thích này khiến Vân Cốc thiền sư cười lớn.
 [Ngã đãi nhữ thị hào kiệt, nguyên lai chỉ thị phàm phu].
 Tôi vốn cho rằng ông là anh hùng hào kiệt, cái gì gọi là hào kiệt? Điều người khác không làm được, anh có thể làm được. Người đó đích thị là anh hùng, là hào kiệt. Ba ngày ba đêm không khởi một vọng niệm, điều này không phải người bình thường có thể làm được. Viên Liễu Phàm tiên sinh có thể làm được. Lại hỏi tại sao? mệnh bị người ta đoán định, khởi vọng tưởng cũng uổng công. Vì vậy mới không khởi vọng tưởng. Đây là phàm phu. Đây là một phàm phu tiêu chuẩn. Chúng ta phải biết, ông từ điểm này mà có thể chân chính tỉnh ngộ.
 Chúng ta hãy xem xem Vân Cốc thiền sư đã khai đạo cho ông như thế nào, làm sao để giáo hóa ông, làm sao đem những quan niệm sai lầm của ông chuyển hóa trở lại.
  Đây mới là học vấn chân thật. Liễu Phàm tiên sinh có thể tiếp nhận đó là thiện căn của ông. Nhà Phật nói thiện căn tức là có khả năng thấu suốt rõ ràng; lại có thể tin sâu không nghi, y giáo phụng hành, đây chính là phước đức. Có thiện căn, có phước đức lại có thể gặp được thiện tri thức giỏi như vậy khai thị, đây là nhân duyên. Thiện căn, phước đức, nhân duyên, cả ba điều này đều có đủ, người đó nhất định thành tựu, có thể đem vận mệnh của họ cải đổi, đạo lý là ở chỗ này.
 Được rồi, hôm nay chúng ta giảng đến đây thôi.