Tác giả Chủ đề: Nóng giận và lo lắng : Lợi và hại  (Đã xem 3282 lần)

0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.

Ngủ rồi love_noborder

Trả lời #5 vào: 08-07-2014 21:18:19
Bộ tộc  người tự nhận sứ mệnh gìn giữ Trái đất

Người Kogi sống trên đỉnh núi Sierra (Colombia) là những hậu duệ cuối cùng của một nền văn minh rất lâu đời cùng với người Inca và Aztec. Các thành phố của họ gần như chưa từng được biết đến.

Ngọn núi nơi người Kogi đang sống là một ngọn núi hình kim tự tháp hình tam giác đơn lẻ cao khoảng 5.500m so với mặt biển. Đây là ngọn núi ven biển cao nhất trên trái đất. Ngọn núi gần như một phiên bản thu nhỏ của hành tinh, với tất cả các kiểu khí hậu của thế giới hiện diện tại đây. Ngọn núi theo đúng nghĩa đen là một vũ trụ nhỏ, là một tấm gương của hành tinh mà trong đó mọi vùng sinh thái đều có mặt, và hầu hết các loài động thực vật của hành tinh này đều có thể tìm thấy nơi trú ngụ.


Núi Sierra Nevada de Santa Marta, nơi trú ngụ của người Kogi

Cuộc hành trình để tới được vùng đất của họ phải vượt qua một khu rừng rậm mà bọn cướp mộ và những kẻ trồng cocaine gọi là “địa ngục”. Người Kogi sống tách biệt khỏi thế giới hiện đại. Họ luôn được các dân tộc châu Mỹ bản địa khác từ khu vực sông Amazon cho đến sông Hudson tôn kính. Ngày nay người Maya tại Guatemala đang được dẫn dắt bởi những người mà năm xưa khi còn trẻ thơ đã được gửi tới đây để người Kogi dạy dỗ. Người Seminole tại Florida thường gửi tặng lễ vật cho họ để tỏ lòng tôn kính.


Người Kogi

Người Kogi có một nỗi sợ hãi sâu sắc về những gì chúng ta đang làm đối với thế giới này. Họ cho rằng loài người đang tự đào hố chôn mình. Càng văn minh, con người càng lầm lạc, mê mờ. Càng văn minh, con người càng làm trái với luật của thế giới tự nhiên. Càng ngày con người càng tham lam. Mà càng tham lam thì càng chia rẽ, hận thù nên bạo lực, chiến tranh khủng bố luôn diễn ra mà kết quả không tránh được là thế giới chiến tranh lần thứ ba sẽ phải xảy ra.

Do vậy, họ sẽ đưa con người vào một cuộc hành trình nguy hiểm vào những bí ẩn của những nơi thiêng liêng của họ để thay đổi sự hiểu biết của cộng đồng về thực tại. Đó là một cuộc hành trình chạm trán với những nguy hiểm, những nỗi sợ hãi. Họ có ý định chứng minh cho con người thấy được rằng công việc của họ có kết quả hữu hình và có thể đo lường được, và hiểu rằng họ thực sự đang trông nom toàn thể Trái Đất.

Thậm chí, họ còn huấn luyện một đoàn làm phim bản địa để làm việc cùng với các chuyên gia, để cho những gì mà đoàn làm phim hiện đại không thể nhìn thấy được có thể xuất hiện trước máy quay. Họ muốn chứng minh cho chúng ta thấy như thế nào và tại sao dẫn đến sự phun trào của năng lượng vũ trụ hỗn loạn gây ra biến đổi khí hậu, dịch bệnh lạ, sự bất ổn định địa chất và sự gia tăng các cuộc xung đột giết người. Nếu người Kogi đúng, thì con người hiện đại phải thay đổi cách nhận thức về bản thân Trái Đất để có thể đến được tương lai.

Người Kogi nói rằng nếu không biết suy xét thì không gì có thể tồn tại được. Đây là một vấn đề, bởi vì chúng ta không chỉ đang cướp bóc thế giới, mà chúng ta còn đang làm kiệt quệ và phá hủy nó. Người Kogi tin rằng họ sống là để chăm sóc cho linh hồn của thế giới và giữ cho trật tự của tự nhiên được vận hành. Nhưng, vài chục năm trước đây họ đã nhận ra là họ dần dần không còn đủ khả năng đảm đương nhiệm vụ ấy khi người hiện đại liên tục khai thác mỏ và chặt phá rừng bừa bãi.


Ngôi làng của người Kogi

Năm 1990 họ đã xuất đầu lộ diện để làm việc với Alan Ereira trong một bộ phim dài 90 phút cho kênh truyền hình BBC1, trong đó họ đột ngột cảnh báo chúng ta rằng. Người hiện đại cần phải thay đổi đường lối phát triển của nền văn minh này, nếu như muốn đi tiếp tới tương lai. Ngay sau đó họ rút lui và ẩn mình trong núi thẳm.

Bộ phim đầu tiên ấy đã có một ảnh hưởng chấn động toàn cầu. Nó được chiếu lại trên BBC2 ngay lập tức sau lần công chiếu đầu tiên, và sau đó đã được trình chiếu rộng rãi ở nhiều quốc gia khác. Bộ phim đã được phát hình khoảng 30 lần ở Hoa Kỳ trong năm 2009. Đây quả thực là một điều phi thường đối với một phim tài liệu đã 20 năm tuổi!

Nó đã có ảnh hưởng rất lớn đến Hội nghị Rio De Janeiro. Nó đã dẫn đến việc nhà Vua Tây Ban Nha tới viếng thăm tộc Kogi và làm thay đổi hoàn toàn thái độ của cả nước Colombia đối với dân tộc này. Ngày nay, mỗi tân Tổng thống Colombia mới lên kế nhiệm đều đến thăm ngọn núi thiêng và tìm kiếm phước lành từ họ.

Nhưng giờ đây người Kogi đã triệu tập Alan Ereira trở lại và nói rằng: Người hiện đại chúng ta đã không thực sự lắng nghe những gì họ đã nói từ 20 năm trước. Họ tin rằng nguy hiểm đang đến gần, yêu cầu Alan Ereira làm một bộ phim cùng với họ. Họ vẫn hy vọng, bộ phim sẽ đưa khán giả vào một hành trình tới những bí ẩn ở những nơi thiêng liêng của họ, để thay đổi hiểu biết của chúng ta về thực tại.

Tuấn Anh (tổng hợp)
Nguồn: http://www.nguoiduatin.vn/toc-nguoi-tu-nhan-su-menh-gin-giu-trai-dat-a24649.html



Bộ tộc Kogi và lời tiên tri về tương lai nhân loại
Bài viết của GS Võ Quý, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Người Kogi là ai?

Colombia là một quốc gia ở Nam Mỹ. Phần lớn lãnh thổ nước này được bao phủ bởi những khu rừng rậm rạp ít được khai phá, đặc biệt là vùng rừng quanh rặng Sierra Nevada thì gần như còn nguyên vẹn từ mấy ngàn năm nay, rất ít người đặt chân đến. Đối với người dân vùng này thì Sierra Nevada được coi là chốn linh thiêng, ẩn chứa nhiều điều bí ẩn. Huyền thoại xứ này nói rằng đó là chỗ ở của các đấng thần linh, có nhiệm vụ che chở cho loài người, nơi mà người dân Nam Mỹ dù bạo gan đến mấy cũng không dám bén mảng đến vì sợ thần linh nơi đây quở phạt.

Sierra Nevada de Santa Marta là dãy núi sát bờ biển cao nhất thế giới, nằm sát phía Tây Bắc Nam Mỹ, có vách dựng đứng, với rừng rậm bao phủ từ chân núi, cây cối mọc chằng chịt, lan dần lên gần đỉnh núi có tuyết quanh năm ở độ cao 5.775 mét trên mặt biển. Trên vùng cao của dãy núi Sierra Nevada có một bộ lạc thiểu số gọi là Kogi sinh sống biệt lập, không giao tiếp với ai, cách biệt khỏi các nền văn minh ngày nay đã nhiều thế kỷ. Họ rất nghi kỵ những người khác bộ lạc. Họ hình như không muốn liên lạc hay tiếp xúc với bất kỳ người lạ nào. Họ thường rút dần lên vùng núi cao, định cư trong những khu rừng sâu thẳm, nơi mây và sương mù huyền ảo bao phủ quanh năm giúp họ cách biệt với mọi người.

Sự khám phá ra bộ lạc Kogi cũng là một sự tình cờ. Năm 1974, một phi công bay lạc trên khu rừng rậm Bắc Sierra, đã phát hiện ở phía dưới, thấp thoáng trong rừng một công trình có hình tương tự như kim tự tháp, nhưng không giống kim tự tháp Ai cập hay các kim tự tháp khác thường thấy ở Nam Mỹ. Các nhà khảo cổ và địa chất đã đến đây nghiên cứu và họ đã khẳng định rằng công trình đồ sộ, cách xây cất khác lạ, bị rừng che kín, là di tích của một nền văn minh xa xưa, đã đạt trình độ rất cao, đã được xây dựng trên bảy hay tám nghìn năm, trước cả nền văn minh Incas và Maya, và có lẽ là một trong những nền văn minh cổ nhất ở Nam Mỹ. Các nhà khảo cổ và dân tộc học dự đoán rằng bộ lạc Kogi có thể là hậu duệ còn sót lại của chủ nhân di tích văn hóa cổ xưa nói trên.

Tôi may mắn được đến thăm người Kogi

Điều cực kỳ may mắn với tôi là đã có dịp đến Sierra Nevada thăm người Kogi. Tháng 2 năm 1992, được mời tham dự Hội nghị quốc tế lần thứ tư về Khu Bảo tồn thiên nhiên và Vườn quốc gia tại Caracas, Venezuela. Có gần 1.000 đại biểu thuộc hơn 100 nước tham gia hội nghị. Việt Nam chỉ có mình tôi, với tư cách là Ủy viên Hội đồng quốc tế về Các Vườn quốc gia và Khu Bảo tồn thiên nhiên của Hiệp hội quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên (IUCN). Báo cáo của tôi tại Hôi nghị đưa ra quan điểm là “muốn quản lý tốt các khu bảo tồn thiên nhiên, phải có sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương và khu bảo tồn phải đem lại lợi ích thiết thực cho họ”. Ý kiến của tôi được nhiều đại biểu tán thành, nhất là các đại biểu thuộc các nước đang phát triển. Một đại biểu của Colombia, cùng là Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo vệ các loài có nguy cơ bị tiêu diệt (SSC) thuộc IUCN như tôi, là Tiến sĩ Juan Mayer Maldonado, hết sức hoan nghênh ý kiến của tôi và tỏ ý muốn mời tôi thăm Colombia một chuyến để biết được dân cư trong các khu bảo tồn ở Colombia sinh sống như thế nào. Juan chỉ hỏi tôi có đi bộ được không? Tôi hết sức vui mừng và nhận lời. Juan lo mọi việc cho tôi hết sức chu đáo.

Hành trình thăm người Kogi

Ngay sau khi Hội nghị kết thúc, tôi lên đường thăm Colombia. Cùng đi với tôi ngoài Tiến sĩ Juan còn có một người Mỹ, Tiến sĩ Richard. Đến sân bay Bogota, Thủ đô Colombia, chúng tôi làm thủ tục nhập cảnh. Khi tôi vừa trao tấm hộ chiếu cho công an cửa khẩu, ông này kêu to lên: “Ông là người Việt Nam đầu tiên đến Colombia!”. Đó là ngày 22 tháng 2 năm 1992. Nhiều người đứng gần quanh đó chạy đến chào tôi hết sức niềm nở. “Hoan hô Việt Nam, Hoan hô Hồ Chí Minh, Hoan hô Võ Nguyên Giáp”. Không thể nói hết nỗi xúc động trong lòng tôi. Cũng đã vài lần được người nước ngoài hoan nghênh, nhưng chưa lúc nào tôi cảm động và tự hào bằng lúc này.

Ra khỏi sân bay, ô tô chạy men theo bờ biển phía bắc, len đi giữa những dải dài rừng ngập mặn, đưa chúng tôi đến một thành phố nhỏ, Santa Marta nằm sát chân rặng Sierre Nevada. Nghỉ lại một đêm ở đây để sáng hôm sau lên núi, Ts. Juan lúc này mới giải thích thêm cho tôi về chuyến viếng thăm đặc biệt này. Ông cho biết người Kogi biết rất nhiều điều bí ẩn về thiên nhiên làm cho các nhà khoa học phải suy nghĩ lại về những vấn đề liên quan đến môi trường và vũ trụ. Sức mạnh về cuộc sống tinh thần của họ thật kỳ lạ mà chúng ta khó có thể hiểu được. Rất ít người Colombia biết được họ là ai và họ sống như thế nào. Họ luôn luôn tự xưng mình là “anh cả” và gọi tất cả chúng ta đều là “em nhỏ”. Có rất nhiều điều chúng ta phải học lại từ họ để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, bảo vệ được thiên nhiên nguyên vẹn như nó vốn có.

“Người Kogi không muốn bất kỳ ai đến vùng sinh sống của họ, nhưng chúng tôi bảo đảm là họ sẽ đón tiếp các ông một cách vui vẻ vì chúng tôi là Tổ chức Bảo vệ Sierra Nevada và dân tộc Kogi, được họ hết sức tín nhiệm”, Ts. Juan nói.

Sáng hôm sau, Juan đưa chúng tôi lên núi Sierra Nevada. Phải mất gần một ngày ô tô leo dốc, chúng tôi mới đến được một thị tứ nhỏ bé là địa điểm cuối cùng có đường ô tô, ở độ cao khoảng 4.000 mét. Ở đây dân cư rất thưa thớt, phần lớn là người Colombia. Để đến được nơi người Kogi sinh sống còn phải mất hai ngày trèo núi cật lực. Juan giới thiệu ngưòi dẫn đường, đồng thời là người chịu trách nhiệm tổ chức cho chúng tôi ăn ở và làm việc tại hiện trường.

Ngày đầu chúng tôi đã phải trèo núi ít nhất 10 tiếng đồng hồ liên tục mới kịp đến nơi có thể hạ trại nghỉ qua đêm an toàn ở trong rừng. Ngày tiếp theo phải đi 6 tiếng. Dọc đường trèo núi, băng rừng, tôi mới hiểu được tại sao Juan chỉ hỏi tôi có đi bộ được không. Tôi cũng là người ít nhiều đã quen đi bộ, trèo núi, làm việc trong rừng, nhưng quả thật tôi chưa lần nào trèo núi dốc một cách vất vả, khó khăn và đau nhức chân như lần này, mặc dầu mọi đồ dùng cá nhân cần thiết đã có một con lừa mang cho, và Juan còn dành cho tôi một con lừa riêng để cưỡi vì tôi là người lớn tuổi nhất đoàn. Có nhiều đoạn, mặc dầu chân đau và mỏi, nhưng tôi cũng không dám cưỡi lên lưng lừa vì đường dốc, nhiều đá, rất dễ trượt ngã. Con lừa ngoan ngoãn bước theo tôi và chỉ khi đến đoạn đi trên sống núi tương đối bằng phẳng, tôi mới dám trèo lên lưng lừa trong chốc lát cho đỡ chồn chân.

Chúng tôi lặng lẽ vượt qua vùng rừng rậm rạp theo con đường mòn hẹp không có người qua lại. Thỉnh thoảng gặp một vài nền đất, hay một vài túp lều nhỏ bỏ hoang không người ở, được người dẫn đường cho biết đó là những chỗ mà người Kogi đã bỏ đi để đến nới xa hơn, cao hơn, khi có người da trắng xuất hiện. Ngày đầu còn đỡ, đến ngày hôm sau, đường đi dốc hơn, khó đi hơn, hai chân tôi đau nhức mà không dám ngồi nghỉ. Tôi phải chặt một đôi gậy để chống mới bước đi được. Cuối cùng chúng tôi cũng đến được nơi cần đến.

Trước mắt tôi là một xóm nhỏ, có những túp lều hình tròn làm bằng thân cây gỗ nhỏ xếp quanh, mái lợp bằng lá, có một cửa ra vào. Gần đó có một số người, cả người lớn và trẻ em đang cùng ngồi nghỉ, chuyện trò. Tất cả, nam cũng như nữ đều để tóc dài, da ngăm đen, dáng người nhỏ nhắn, ăn mặc giống nhau: vải tự dệt bằng sợi thô màu trắng, ống tay áo rộng, ngang lưng đeo một con dao dài.

Khi hỏi về các phong tục tập quán của người Kogi, người dẫn đường đã cho chúng tôi biết, mỗi gia đình đông người thường có hai lều, một cho đàn ông, một cho phụ nữ. Khách lạ đến thăm là đàn ông không được vào lều phụ nữ, và ngược lại. Ngoài ra họ không thờ cúng, cũng không có tín ngưỡng như các bộ tộc thiểu số khác. Họ không ăn cá, thịt nên không săn bắn. Họ tôn trọng tất cả các loài động vật và sống rẩt thân thiện với chúng. Tính tình họ hết sức hiền lành, điềm đạm, ít nói. Tuy nhiên, có điều nên biết là họ không thích người da trắng. Tôi hỏi thế liệu da tôi thế này họ có ghét không thì ông ta cũng không biết.

Vừa đến nơi, ông bạn đường Richard của tôi, mồ hôi ướt đẫm như tắm, tỏ vẻ hơi lo lắng. Ông liền soạn lại các thứ mang theo và chuẩn bị lều, võng, rồi tắm rửa trước lúc trời tối. Còn tôi chỉ có một ý nghĩ là làm thế nào tiếp cận được người Kogi.

Một em bé khoảng 6 tuổi đến gần bên tôi, nhem nhuốc, đi chân đất, dáng đi hơi khập khiểng như có cái gì vướng ở gót chân. Tôi bế em bé lên, em vẫn để yên không kháng cự. Gót chân em dẫm phải gai, đã mưng mủ. Tôi liền bế em xuống suối cạnh đó rửa sạch chân tay, mặt mũi cho em. Bế em lên, rút túi thuốc tùy thân trong túi xách mang theo, lấy bông tẩm cồn lau sách nơi mưng mủ rồi lấy kim sạch chọc nhẹ nơi vết thương để nặn mủ ra. Em bé kêu lên một tiếng rồi cười vui vẻ. Tôi lau sạch vết thương, lấy băng dính băng lại thả em ra và để ý xem những người ngồi đó có phản ứng gì không.

Ngay sau đó, một đôi vợ chồng trẻ bế một em bé đến bên tôi, mặt em có nhiều vết lở như kiểu bỏng dạ, nước chảy ra nhem nhuốc, ngứa ngáy. Tôi chợt nghĩ là họ đã tưởng nhầm tôi là thầy thuốc. Bí quá không có cách nào khác tôi đành lấy bông, cồn lau sạch mặt em bé. Lấy một viên thuốc tetraciclin (vì cũng không có thứ kháng sinh nào khác), dùng tờ giấy trắng gói lại, tôi nghiền nhỏ bằng hai hòn đá rồi rắc bột thuốc lên các vết loét trên mặt và cổ em bé. Bằng cử chỉ, vì không nói được tiếng họ, tôi đưa cho người cha 2 viên tetraciclin, hai tờ giấy trắng và nói với anh ta cách nghiền nhỏ như tôi đã làm để rắc cho em vào ngày hôm sau.

Qua thái độ của những người đang theo dõi tôi vừa qua, tôi nghĩ rằng đã đến lúc mình thử đến chào họ để làm quen. Tôi tiến về phía họ, cúi chào, họ tỏ ra vui vẻ, họ sờ vào tay tôi, hình như họ thấy tôi không ướt đẫm mồ hôi như ông bạn người Mỹ. Không biết nói gì hơn, tôi ngó vào trong chiếc lều gần đó, có một người đàn ông đứng tuổi ngồi trên chiếc võng bên bếp lửa, mắt lim dim, dáng như đang trầm ngâm suy nghĩ. Tôi ra hiệu xin vào lều và được ông gật đầu đồng ý.

Ngồi bên bếp lửa cùng ông ta, nhưng cả hai người không nói được câu nào. Miệng ông ta luôn nhai một thứ lá khô đựng trong một túi lưới, tay ông ta cầm một chiếc ống nhỏ hình quả bầu eo, một que nhỏ cắm vào qua miệng ống, thỉnh thoảng một tay ông xoay chiếc que nhỏ, đồng thời tay kia xoay quả bầu rồi rút chiếc que ra chấm một thứ bột trắng vào lưỡi. Môi ông ta có màu vàng nghệ thẫm. Tôi nghĩ ông ta đang nhai một thứ lá như ta nhai trầu cùng với thứ bột như vôi để có thứ màu vàng nghệ trên môi. Không biết làm gì thêm, tôi liền xin ông một vài lá. Ông sẵn sàng cho tôi. Đưa lên miệng nhấm, thấy có vị hơi đắng. Ngày hôm sau, tôi hỏi người dẫn đường mới biết đó là lá cocain và chỉ nam giới trưởng thành mới được nhai thứ lá đó sau khi đã được trưởng lão làm phép. Tôi đưa máy lên xin chụp ảnh, ông ta gật đầu đồng ý. Tiếp theo, tôi xin được ngồi kề bên ông và nhờ một bạn trẻ đang đứng thập thò ngoài cửa lều vào giúp tôi chụp ảnh cả hai người. May mà máy ảnh của tôi có thể chụp tự động nên ảnh chụp được khá rõ nét.

Vào lúc đó, ông bạn Mỹ không thấy tôi và tưởng tôi biến đi đâu mất liền gọi. Tôi ra khỏi lều và bảo là tôi đang ngồi chơi với người Kogi, không những thế mà đã chụp được một số ảnh với họ. Ông ta hết sức ngạc nhiên không hiểu sao tôi đã làm được những việc như thế mà không qua người hướng dẫn. Ông ta cũng vội vàng đem theo máy ảnh đến để chụp nhưng vừa đưa máy lên, mọi người đã xua tay từ chối.

Sáng sớm hôm sau, lúc tôi vừa thức dậy đã thấy hai vợ chồng bế theo em bé trên tay đến bên lều của tôi. Họ vui mừng chỉ cho tôi biết các vết chảy nước trên mặt em bé đã khô hết. Chắc vì ở đây chưa dùng kháng sinh bao giờ nên tetraciclin rất có công hiệu. Bằng những cử chỉ hết sức thân thiện, hai vợ chồng dẫn tôi đến lều riêng của gia đình, bên kia sườn đồi. Cùng ngồi bên bếp lửa, ông chồng khều trong tro nóng một củ sắn nướng tặng tôi. Quá cảm động, tôi bóc sắn ăn mà rơi nước mắt trước thái độ hết sức vui mừng của đôi vợ chồng trẻ. Tôi chưa bao giờ được ăn một miếng sắn ngon lành như vậy. Đây quả là một hành động, một lời cảm ơn thật đơn giản mà đầy ân tình, một tình người chân chính, không bao giờ có thể quên được.

Chúng tôi ở lại đây hai ngày, nói chuyện với mọi người, tìm hiểu phong tục tập quán, thăm rừng, nương rẫy. Tôi được mọi người tiếp đón vui vẻ, nhất là các em bé, luôn xoắn xít bên tôi, đến mức ông bạn Mỹ phải thốt lên: “Tôi chịu ông, không hiểu tại sao mà ông lại được người Kogi quý mến đến thế”. Tôi được tự do chụp ảnh, mọi người vui vẻ chụp ảnh cùng tôi, người lớn tuổi cũng như trẻ em, trong khi đó ông bạn người Mỹ đành chịu không được phép chụp ảnh họ.

Trong hai ngày ngắn ngủi sống với người Kogi, tôi nhận thấy nhiều điều khác lạ giữa người dân nơi đây với những bộ lạc ít người trong vùng mà tôi đã có dịp đến thăm như ở Brazil hay Venezuela. Tất cả người Kogi đều mặc quần và áo với vải họ tự sản xuất lấy. Họ là những người nông dân hết sức bình dị, sinh sống bằng cách trồng trọt một vài thứ cây đơn giản như sắn, khoai sọ, rau, chuối… Phương pháp trồng trọt cũng hết sức thô sơ là chọc lỗ để gieo hạt hay thu nhặt hoa quả trong rừng và như họ nói là theo đúng cách sinh sống mà tổ tiên xa xưa hàng nghìn năm truyền lại. Họ sản xuất vừa đủ dùng và không hề tích trữ, luôn sống vừa đủ, không dư thừa, do đó mà tại đây không hề có trộm cướp hay các tệ nạn như ở các bộ lạc khác.

Điều đặc biệt là người Kogi không hề ăn cá thịt, khác hẳn với các nơi khác. Họ không săn bắn, không đánh cá, không giết hại các động vật sống hoà đồng với họ. Họ hết sức tôn trọng thiên nhiên và yêu mến tất cả các loài động vật vì cho rằng mọi con vật đều biết đau đớn. Họ rất thông hiểu về các loài cây cỏ dùng làm thuốc, và nhờ thế họ sống khỏe mạnh, thanh thản, nhiều người trong họ không bệnh tật, sống thọ trên trăm tuổi.

Điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả là tổ chức xã hội và cuộc sống tinh thần của bộ tộc thiểu số được xem là “lạc hậu” này. Đơn vị nhỏ nhất là gia đình có bố mẹ và con cái. Khi trẻ còn nhỏ, được cha mẹ nuôi dưỡng, khoảng 7 tuổi thì chúng rời cha mẹ đến ở với ông bà để được học hỏi về cách sống tự lập. Đến 21 tuổi thì đi theo các bậc trưởng lão để học hỏi thêm, đến khoảng 30 tuổi khi đã có những kiến thức vững vàng về mọi mặt mới khởi lập gia đình. Ngoài ra, không có một nhà trường nào khác. Cách dạy dỗ ở đây là truyền miệng từ cha mẹ, ông bà đến con cháu và từ các bậc trưởng lão đến những thanh niên trong bộ lạc. Họ không có chữ viết và cũng không thấy có sách vở.

Cách giáo dục thanh niên ở đây cũng hết sức kỳ lạ. Khi đến tuổi khoảng 21, thanh niên được gửi theo học với các trưởng lão. Nơi học là một hang tối hay một túp lều đơn sơ dựng nơi thanh vắng trong rừng sâu. Tại đây, họ ngồi im lặng, quay mặt vào vách đá để nghe ông trưởng lão ngồi ở phía sau giảng dạy. Thời gian học từ 7 đến 9 năm. Họ chỉ nhai một ít lá cây, uống chút nước và tĩnh tâm suy ngẫm về những điều được giảng dạy. Mỗi ngày, vào giờ nhất định, vị trưởng lão có nhiệm vụ hướng dẫn, trao cho họ một đề tài để suy ngẫm, và như một trưởng lão giải thích: “Đời sống là một sự mầu nhiệm, nếu con người biết tu dưỡng thân và tâm để ý thức được đời sống một cách trọn ven thì người ta sẽ cảm nhận được nhiều việc khác phi thường hơn”. Quả thật, cho đến bây giờ, tôi cũng chưa hiểu hết ý nghĩa sâu xa của câu nói đó. Hình như trong câu nói có hàm ý về tâm linh mà chúng ta khó nhận thức được.

Một điều lạ lùng nữa là một bộ lạc, một cộng đồng dân tộc ít người mà không có người lãnh đạo. Theo tôi tìm hiểu thì mọi công việc ở đây đều được quyết định chung, mọi người được tự do phát biểu ý kiến và tất cả mọi người thực hiện công việc một cách tự giác. Người có uy tín trong cộng đồng là các trưởng lão, được xem là người có hiểu biết sâu về mọi mặt, nhất là về mặt tinh thần, tâm linh, là người hướng dẫn về tinh thần cho cả cộng đồng. Nơi hội họp của cả cộng đồng là một ngôi nhà chung, được dựng lên ở nơi thuận lợi cho mọi người. Ngôi nhà chung này cũng hình tròn, nhưng rộng rãi, sạch sẽ, trong nhà không hề có một bức tượng hay một vật thể nào biểu trưng cho tôn giáo hay tín ngưỡng như ở các bộ lạc khác.

Gặp được một cơ may hiếm có là đến thăm người Kogi ở biệt lập trên vùng núi cao, hiểm trở Sierra Nevada, tôi nhận thấy một số điều kỳ lạ ở họ, đặc biệt là ý thức tôn trọng thiên nhiên, bảo vệ cuộc sống tâm linh của một nền văn minh cổ xưa mà thế giới con người ngày nay rất cần nghiên cứu và học tập..

Thêm những bí ẩn về người Kogi

Vào cuối năm 1993, tôi nhận được tin ký giả Alan Ereira đài BBC là người đầu tiên và cũng có thể là người cuối cùng được bộ lạc Kogi cho phép cùng với một số người giúp việc đến quay phim và tìm hiểu về mọi sinh hoạt của bộ lạc, với điều kiện là phải chuyển một thông điệp ghi lời của họ gửi cho tất cả chúng ta – những người mà họ gọi là “các em nhỏ” – thông qua Đại hội Các Tôn giáo toàn thế giới tổ chức tại Chicago vào tháng 9 năm 1993. Điều kỳ lạ là người Kogi sống biệt lập nơi vùng núi cao, không giao tiếp với ai, nhưng họ biết là Hội nghị đó sẽ diễn ra. Thông điệp này về sau khiến cả thế giới phải ngạc nhiên về những hiểu biết và tâm tư của người Kogi về tình trạng nguy nan của Trái đất và cả nhân loại hiện nay. Sau đây là một vài ý trích từ bản thông điệp nói trên:

“…Chúng tôi nói bằng trái tim, những lời nói chân thành nhất rằng: nhân loại đang sắp bước vào một thảm hoạ rất lớn mà từ trước tới nay chưa từng xảy ra. Loài người cần biết rằng tất cả chúng ta đều là anh em một nhà, đều là con cùng một mẹ. Dù chúng ta có màu da khác nhau, có những truyền thống khác nhau, tuân theo những quan niệm khác nhau, sống trong những điều kiện khác nhau, nhưng tất cả chỉ là bề ngoài mà thôi. Bên trong chúng ta đâu có khác biệt: khi đói chúng ta đều đói như nhau, chúng ta đều có cảm giác vui buồn như nhau. Hiển nhiên đúng như vậy rồi vì chúng ta đều là con cùng một mẹ, nhưng tiếc là các em đã không chú ý đến điều này vì các em đã quên mất nguồn gốc thiêng liêng của các em rồi”.

“Sống xa Mẹ đã lâu, các em quên hẳn người Mẹ đã sinh ra các em, săn sóc che chở, nuôi dưỡng các em. Vì thiếu ý thức, các em đã phá nát gia tài Mẹ để lại, phá hoại một cách không thương tiếc!… Các em đang giày xéo lên thân thể Mẹ mà các em không biết rằng các em đang giết hại chính đấng sinh thành ra mình! Các anh biết rõ việc này nên chỉ muốn khuyên các em hãy dừng lại, quan sát và ý thức việc làm hiện nay của các em, vì giết hại đấng sinh thành ra mình là giết hại mình đó.

Mẹ của các em là ai? Chính là Trái đất này. Lòng Mẹ chính là biển cả và trái tim của Mẹ chính là những dãy núi cao có mặt khắp nơi. Này các em, đốt rừng, phá núi, đổ đồ ô uế xuống biển chính là chà đạp lên thân thể của Mẹ đó! Mẹ là nguồn sống chung và con người không thể sống mà không có mẹ. Nếu Trái đất bị hủy hoại thì chúng ta sống ở đâu? Đây là một vấn đề hết sức quan trọng và cần xét đoán một cách nghiêm khắc. Các anh không biết trong vòng vài năm nữa, thế giới sẽ biến đổi như thế nào? Chắc không lấy gì làm tốt đẹp lắm đâu nếu các em cứ tiếp tục phá hoại mà không biết bảo vệ môi trường sinh sống của mình. Tại sao thừa hưởng một gia tài tốt đẹp như thế mà chúng ta lại phá hoại nó đi? Tại sao các em không nghĩ rằng trải qua mấy ngàn năm nay, các thế hệ trước đã giữ gìn cẩn thận, đã trân trọng từng tấc đất, từng ngọn núi, từng khóm cây, ngọn cỏ mà ngày nay các em lại phá nát mà không hề thương tiếc? Làm sao các em có thể tự hào rằng mình là văn minh khi nhân loại và mọi sinh vật mỗi ngày một đau khổ nhiều hơn xưa? Làm sao có thể nói nhân loại đã tiến bộ khi con người ngày nay đang gia tăng hận thù, chỉ thích gây chiến tranh khắp nơi? Làm sao nói cho các em biết rằng vũ trụ có những định luật vô cùng lớn lao, khồng thể vi phạm được. Lòng các anh vô cùng đau đớn vì các anh thấy rằng Trái đất đã khô kiệt rồi, mọi sự sống đang lâm nguy và thảm họa diệt vong chỉ còn trong giây lát. Do đó, các anh muốn kêu gọi khẩn thiết rằng, hãy thức tỉnh, ngừng ngay những việc có tính chất phá hoại lại, nếu không thì trễ quá mất rồi!… Trái đất, Mẹ của tất cả chúng ta sắp chết nếu chúng ta không biết săn sóc Người”.

Vào tháng 2 năm 1993, khi đoàn của ký giả Alan Ereira rời khỏi bộ tộc, những người Kogi đã ân cần nhắn nhủ “Xin các ông hãy mang thông điệp này gửi cho thế giới bên ngoài để nhân loại biết rằng tình trạng đã thật sự nguy kịch lắm rồi! Nếu họ không chịu thức tỉnh thì đợi đến bao giờ nữa đây”.

Quả đúng như vậy, thế giới ngày nay đang đối mặt với tình trạng hết sức nguy cấp về cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Trái đất đang nóng lên hàng ngày vì chính các hoạt động thiếu suy nghĩ của chúng ta trong quá trình phát triển. Nguy cơ suy tàn của thiên nhiên và cả loài người đang đến gần mà nhiều người trong chúng ta vẫn như mù, như điếc, chưa nhận thức được để sớm có biện pháp ngăn ngừa hữu hiệu. Chúng ta vẫn còn chần chừ. Trong lúc đó người Kogi, chỉ một nhóm rất ít khoảng 20 làng bản sinh sống cách biệt trên vùng cao của dãy Sierre Nevada lại biết rất rõ để cảnh báo cho chúng ta. Đó là một điều bí ẩn không thể lý giải được. Có lẽ họ đã nhờ tâm linh sáng láng mà cảm nhận được điều đó chăng?

Theo THIENNHIEN.NET
Nguồn: http://www.reds.vn/index.php/phat-trien-ben-vung/6292-bo-toc-kogi-va-loi-tien-tri-ve-tuong-lai-nhan-loai


Một vài nhận xét chung về Bộ lạc Kogi

1.   Về cách sống, văn hóa và nhận thức:
-   Đàn ông và đàn bà đều ăn mặc giống nhau, và đều không ăn thịt, cá hay bất cứ loài động vật, côn trùng nào --> Đây là cách sống bình đẳng giữa người và người, giữa con người và các chúng sinh khác. Hay nói đúng hơn, đây là cách sống không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ chúng sinh”.
-   Trong nhà không bày các vật thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng của bộ tộc giống các bộ tộc khác --> Họ rất khoa học , hiểu biết rất rõ về vũ trụ, trong đó con người là yếu tố then chốt. Họ đã hiểu rõ, tường tận chân lý  rằng, tất cả các tôn giáo trên thế giới này đều là sản phẩm của nỗi sợ hãi của con người mà ra. Tồn giáo, chỉ là chỗ bẫu víu , chỗ dựa tinh thần khi con người ta lâm vào những hoàn cảnh éo le, bi đát, thương tâm và không còn lối thoát .
-   Thanh niên của tộc người Kogi muốn được xem là trưởng thành, hoàn thiện, có năng lực, thì họ phải trải qua 9 năm tu tập. Họ ngồi quay mặt vào vách đá để khám phá bản thân và suy ngẫm sự liên kết, giao thoa, hợp nhất giữa trời đất, con người và thiên nhiên.  Thực tế đây là pháp tu thiền  theo đúng nghĩa của Phật giáo thời Đức Phật Thích Ca ( tu theo tỉnh thức chứ không phải ngồi như cục đá như các bậc cao tăng đã làm).

-   Họ sản xuất vừa đủ dùng và không hề tích trữ, luôn sống vừa đủ, không dư thừa, do đó mà tại đây không hề có trộm cướp hay các tệ nạn như ở các bộ lạc khác.==> Họ không có lòng tham, họ không có tư tưởng để dành, vì họ biết rằng chiếm hữu sẽ làm lòng tham của con người trỗi dậy. Trong kinh “Thập nhị nhân duyên”, đức Phật đã dạy vòng luân hồi qua 12 nhân duyên “ Vô minh --> Hành --> nghiêp --> Danh sắc --> Lục nhập --> Xúc --> Thọ --> Ái ( thích)--> hữu ( muốn có) --> Thủ( chiếm hữu) --> Sinh ( tạo ra tiền , tài, danh vọng,quan hệ ...)  --> Phiền não , già, bịnh và cuối cùng là chết trong khổ đau .” Ngoài ra, Tứ Diệu đế cũng chỉ rõ: Tham , Sân , Si là nguồn gốc khổ đau của mọi sinh vật. Như vậy, qua cuộc sống của họ,  ta thấy rằng., người Kogi đã Loại bỏ giai đoạn  “ái, hữu, thủ, Sinh” để cắt đứt vòng 12 nhân duyên của họ,  gần như họ đã loại bỏ cái Tham, Sân, Si “ trong tâm thức của họ.

2.   Và đây là những gì họ làm được:
- Họ sống tách bệt với thế giới nhưng họ biết tất cả những gì đã và đang diễn ra trên thế giới. Họ còn biết đang có cuộc họp về “ hội nghị các tôn giáo toàn thế giwosi tại Chicago”, họ biết và cảnh báo con người về tương lai thế giới .

- “Làm sao các em có thể tự hào rằng mình là văn minh khi nhân loại và mọi sinh vật mỗi ngày một đau khổ nhiều hơn xưa? Làm sao có thể nói nhân loại đã tiến bộ khi con người ngày nay đang gia tăng hận thù, chỉ thích gây chiến tranh khắp nơi? Làm sao nói cho các em biết rằng vũ trụ có những định luật vô cùng lớn lao, khồng thể vi phạm được.” câu nói này của họ không hề sai tí nào cả, dù họ đang sống trên đỉnh núi cao, họ không tiếp xúc với nền văn minh nhân hoại. Họ đã hiểu rõ giá trị của nền văn minh của con người. Và , trong lời nói này, họ đã hơn con người hiện đại của chúng ta một cái đầu.
- Như vậy, điều này chứng tỏ rằng, trong bộ lạc “ lạc hậu “ này,  đang có rất nhiều người, với tâm thanh tịnh hoàn toàn, nên họ có đầy đủ năng lực để xóa tan mà đêm của vô minh đi, ý nghĩ và nhận thức của họ có thể vượt qua không gian và thời gian  để nhận thức được chân lý đích thực của cuộc sống, chân lý của vũ trụ. Rõ ràng, những cảnh báo của họ , những răn dạy của họ về đạo đức nhân bản nhân quả đối với phần còn lại của thế giới , theo mình là hoàn toàn có cơ sở.

- “Huyền thoại xứ này nói rằng đó là chỗ ở của các đấng thần linh, có nhiệm vụ che chở cho loài người, nơi mà người dân Nam Mỹ dù bạo gan đến mấy cũng không dám bén mảng đến vì sợ thần linh nơi đây quở phạt.” Thần linh ghê gớm như thế, tại sao bộ lạc Kogi vẫn sống an bình, tuổi tho cao dù họ chẳng hề thờ phụng ai cả ? Đơn giản vì họ là một tập thể có tâm thanh tịnh, và, họ, vói tâm gần giống như tâm Phật, họ  không còn chịu tác động của Nghiệp hoặc chịu rất ít tác động của nghiệp ( theo triết lý của nhà Phật), do đó tâm họ như một tấm gương, vì vậy, nếu ai bén mảng đến nơi này để phá hoại hoặc làm điều ác  đối với họ thì họ sẽ nhận lại một nghiệp báo đúng bằng nghiệp báo mà họ đã gây ra ngay tức khắc theo đúng quy luật nhân quả trả vay chứ không hề có thần thánh nào quở phạt cả.( Đối với người bình  thường, do chịu tác động tương tác đa chiều nên nhân quả  trả vay của nghiệp bị phân tán và ít rõ nét , đôi lúc không nhìn thấy được ).
Qua phân tích trên, chúng ta thấy rằng, với nhà lầu, xe hơi, máy bay, máy tính của thế giới hiện đại ….. nhưng “ đẳng cấp “ của chúng ta thua họ cả mấy cái đầu. Và câu trả lời sẽ dành cho tất cả những ai dành một vài phút để suy ngẫm ..................

 


Ngủ rồi love_noborder

Trả lời #4 vào: 24-05-2014 13:21:33
Ngày nay, rất nhiều người đang đâm đầu lao vào những chuyện hoang đường, và khoảng cách giữa tín ngưỡng và mê tín, thậm chí là cuồng tín đang ngày càng mong manh. Nếu để ý một chút, ta thấy khắp nơi , từ Nam chí Bắc, đâu đâu cũng thấy  xuất hiện giữa khu dân cư, vệ đường những “ ngôi nhà tâm linh” tô vẻ xanh đỏ tím vàng , chạm khắc rồng phượng, chữ Tàu nguêch ngoạc mà người yếu bóng vía mới nhìn thấy đã lạnh sống lưng.
Chúng ta hãy dành một vài phút suy nghĩ xem, ở các nước phương Tây, họ không có những khoảng này, nhưng chắc chắn là họ giàu có hơn ta, tuổi thọ họ cao hơn ta, trẻ em họ có tỷ lệ tử vong thấp hơn ta là điều thực tế. Ngoài ra, tỷ lệ người chết “ bất đắc kỳ tử “ ví dụ như tai nạn  giao thông, tai nạn hầm mỏ, sông nước… của họ vẫn thấp hơn ta rất nhiều. Điều đó minh chúng rằng những  “ sản phẩm tâm linh “ của ta hiện đang có không hề có tác dụng gì cả trong thực tế, ngoại trừ việc …. làm cho con người chúng ta thêm sợ hãi và lo lắng, tiền mất tật mang  mà thôi.
Các sản phẩm tâm linh hiện nay thực ra , tác dụng thực tế thì không thấy đâu, nhưng những mặt tiêu cực, ảnh hưởng của nó thì đã rõ rành rành. Bao nhiêu vụ cháy chợ, thiệt hại hàng trăm tỉ, khiến bao người phải lao mấy năm gần đây đều có nguyên nhân từ việc đốt vàng mã của các tiểu thương, và hậu quả kinh tế, xã hội, những hệ lụy đằng sau nó là vô cùng lớn.
Mỗi một lần tất niên, chạp giỗ,… nhìn thấy đống vàng mã, nào là áo quần, giày dép, mũ nón, nhà cửa, xe hơi, xe máy, ngựa, điện thoại, với chi phí lên đến tiền triệu…… chỉ để đem ra đốt mà thấy xót. Người đốt vàng mã thì mồ hôi nhễ nhại, đốt lửa ngút trời dễ gây nguy cơ cháy các vật dụng và nhà cửa, chưa kể đến ô nhiễm môi trường, và làm ảnh hưởng đến những tâm hồn trong sáng của trẻ nhỏ khi tiếp cận
Nước chúng ta còn nghèo. Mỗi một đồng bạc tạo ra đều là kết quả của mồ hôi, công sức và trí tuệ của con người. Tuy nhiên, hãy dành thời gian xem mấy cái thành phố của người quá cố thì hoành tráng khủng khiếp. Thay vì chỉ làm đơn giản để con cháu tưởng  nhớ ơn nghĩa sinh thành của các bậc tiền nhân, Có những ngôi mộ được đầu tư hàng tăm triệu , thậm chí hàng tỷ đồng để phơi mưa phơi nắng trong khi biêt bao nhiêu trẻ em Việt Nam chỉ cần 1 phần nhỏ trong  khoảng ấy để thực hiện được ước mơ cắp sách đến trường!
Hãy nhìn kỹ lại mà xem, hầu hết các ông đồng , bà cốt hiện nay, nếu để ý một chút , thì đa phần là họ xuất thân từ những thành phần có nghề nghiệp không mấy thanh tịnh. Đa phần là những người này đều là dân buôn bán, hàng cá ở chợ, những người có liên quan đến đồ tể ( giết trâu bò, lơn gà), và những người làm nghề sông nước, hiếm thấy ai xuất thân từ những gia đình làm ăn chân chính và thành phần trí thức. Như vậy đủ hiểu rằng khả năng họ được “ thánh thần , trời phật “ phù hộ hay không thì chúng ta tự biết.
Về nguyên nhân của sự mê muội, xuất phát từ hai nguyên nhân chính:Thứ nhất  là do lòng tham của con người. Chính vì sự tham lam của ta, muốn được giàu có, muốn được thăng quan tiến chức mà không phải đổ mồ hôi, công sức và trí tuệ nên ta mới bày vẽ lễ nghĩa để nhằm “mua chuộc “ thần thánh, dù ta không hề biết các vị ấy là ai, đang ở đâu và họ có bằng lòng giúp ta hay không.
Thứ hai do sợ hãi của bản thân. Một khi bị ai đó hù dọa về mặt tâm linh một chút là mặt mày tái mét, quỳ lạy, van xin, sắm lễ để được người khuất mặt tha thứ, gia hộ…. Và tất nhiên, người được lợi không ai khác hơn là người đã cất công suy nghĩ ra cái chiêu hù dọa ấy.  Một vị quan đương chức , chỉ cần nghe “ năm nay có họa” một chút thì tốn ngay lễ nghĩa để giải trừ. Một vị giám đốc xem bói nghe phán năm nay sẽ làm ăn thất bát, nợ nần , kiện tụng thì lập tức mặt xanh như đít nhái, bao cái uy quyền trước nhân viên bỗng chốc biến đâu mất tiêu….. Kết quả là, thầy thì cứ phán kiểu “ vô thưởng vô phạt”, còn tín đồ thì phải lo sốt vó, phải quỳ gối, dâng lễ, lạy lục, van xin, ……..
Chúng ta, một thực thể, cũng giống như một sinh linh khác, chúng ta không làm điều gì sai tại sao chúng ta phải sợ? Chúng ta lâm vào cảnh lo lắng sợ hãi vì chúng ta đã làm điều không quang minh chính đại, chúng ta sống trong hân thù và gây nên hận thù và sợ bị trả thù, chúng ta làm hại người khác trong ý nghĩ và hành động. Nếu chúng ta không tham lam, chúng ta không làm điều ác, không làm hại người, thì chúng ta có lý do gì để phải sợ ai?
Đa phần người Việt Nam chúng ta chịu sự ảnh hưởng của Phật giáo. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn về tư tưởng chính thống của Phật Giáo, xin trích  vài lời từ kinh tạng Nykaya ( nguyên bản kinh gốc tiếng Phạn đang lưu giữ tại Bảo tàng Phật giáo Ấn Độ), trong bài kệ của Đức Phật Thích Ca từ hơn 2500 năm trước, tại thành Savathi ( Thành Xá Vệ), khi đó, Đức Phật Thích Ca đã nhắc nhở Bà la môn Sundrarika Bharadvaja ( khi vị này bảo rằng có thể tắm nước sông Hằng để rửa tội)  như sau:
“Sông Sundarikà
Có thể làm được gì?
Payàga làm gì?
Cả sông Bàhukà?
Không thể rửa nghiệp đen
Của kẻ ác gây tội.
Ðối kẻ sống thanh tịnh,
Ngày nào cũng ngày tốt,
Với kẻ sống thanh tịnh,
Ngày nào cũng ngày lành,”
Như vậy, từ hàng ngàn năm trước, Đức Phật đã chỉ rõ sự mê tín không mang lại tác dụng gì cho chúng ta, Đức Phật không quan tâm vào xem tướng, xem bói, ngày lành tháng tốt mà Đức Phật đã chỉ rõ là chúng ta phải sống thế nào đó để tự sửa lấy mình, tự cứu lấy mình, sống phải có trách nhiệm đối với mình , với gia đình và xã hội, để chúng ta không có kẻ thù, không có oán trách, chúng ta sống trong tình thương yêu, tin tưởng lẫn nhau thì làm gì có “ mối nguy” nào đến với ta mà ta phải suốt ngày lo lắng, tốn thời gian và công sức , lao tâm khổ tứ để chầu chực các thầy bói, cô đồng để xem hạn vận, xem ngày tốt xấu! Thay vì thế, chúng ta hãy dành thời gian công sức để làm ra sản phẩm cho xã hội,  số tiền đó chúng ta có thể dùng vào những việc có ích hơn , thiết thực hơn, để giúp đời, giúp mình, để cùng nhau góp phần xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn, nhân văn hơn và ….. hạnh phúc hơn…

 


Ngủ rồi love_noborder

Trả lời #3 vào: 05-03-2014 17:58:19
Trong kinh tạng pali, kinh Trung bộ, có đề cập đến đức Phật Thích ca dạy các tỳ kheo tại Kosami, có đoạn:

\\\"Oán hận diệt oán hận
Không bao giờ diệt được
Từ bi diệt oán hận
Là định luật ngàn thu\\\"
Sau gần 2600 Năm, lời phật dạy ngẫm lại càng rất đúng và rất giá trị. Ai đã trải qua những lần tha thứ mới thấy được vị ngọt của lòng từ bi.

 


Ngủ rồi love_noborder

Trả lời #2 vào: 14-01-2014 20:52:28
FUNDAMENTAL PRINCIPLES TO OVERCOME WORRY.
1. Live in \\\" day-tight compartments\\\"
2. Facing with trouble by:
- Ask yourself : \\\" What\\\'s the worst case that can posibly occur? \\\"
- COmpare with others people who are facing with more worst and create the motivation for yourself.
- Prepare to acept the worst.
_ Try to improve the worst
3.  Especially, remind yourself of the exobritant price you can pay for worry in terms of your helth, your work effective.

Để vượt qua nỗi lo lắng và sợ hãi, chúng ta cần thực hiện  các bước sau:
I. Phân tích và loại bỏ mối lo không cần thiết:
- Có những người lo những chuyện chẳng liên quan gì đến mình như là hôm nay Tổng thống Mỹ đi chợ cùng gia đình, hay là lo lắng những chuyện mà ta không thể làm gì được, ví dụ như lo lắng  không biêt công ty thưởng bao nhiêu tháng lương, hay có người lại lo vì cầu thủ Messi không tham gia trận đấu tối nay..... Những cái lo đó là những cái lo thừa, vì ta không lo nó cũng xảy ra, ta có lo cũng không thể xoay chuyển được tình thế...Vậy lo làm gì cho nó lao tâm, khổ tứ? Hãy dành thời gian tập trung vào những Điều ta đáng lo khi co một mối lo xuất hiện:
1. Mối lo đó là chính đáng hay không? Hậu quả của nó thế nào?
2. Ta có thể thay đổi được nó không?
3. Lập kế hoạch hành động để đối mặt và hóa giải mối lo đó
Chú ý:
ta có thể thực hiện từ bước 1 đến bước 3. Nếu cần thiết , ta có thể loại bỏ mối lo ngại ngay từ bước 1 hoặc bước 2 để \\\" nhẹ gánh\\\".
II. Đối diện với mối lo lắng:
1. Hãy đặt mình vào trường hợp xấu nhất để vượt qua. Ví dụ hôm nay ta lo vì làm việc mệt mỏi quá, ta hãy nghĩ là mình còn may mắn vì anh thợ hồ kia còn vất vả hơn mình nhiều lần: Khi ta sống trong thiếu thốn, ta hãy nghĩ là mình còn may mắn hơn rất nhiều người neo đơn, vô gia cư; Kh i ta bị đau nhức, ta hãy nghĩ mình còn may mắn hơn nhiều người đang chịu dđau đớn , sống dở chết dở trong bệnh viện.Và như vậy , ta hoàn toàn vó cơ sở để mỉm cười với cuộc sống của mình.
2. Đừng lo lắng về sự chỉ trích :
Vấn đề chúng ta làm, là hãy suy nghĩ, đôi lúc cũng đừng nghĩ đến đúng sai mà hãy nghĩ đến hậu quả của nó gây ra thế nào đối với mình, đôi với xã hội, với người xung quanh. Đừng lo lắng vì người khác bảo mình ngu, đi làm dâu thiên hạ. Miến là ta làm đúng, làm điều tốt, điều chân chính và minh bạch. Và điều quan trọng nhất là những điều mình làm phải két hợp hài hòa giữa lợi mình và lợi cả cho người.
Con người chúng ta, người ta chia làm 4 vùng : VÙng thứ nhất là vùng \\\" tôi biết, anh biết và mọi người cùng biết\\\" . Vùng thứ 2 là vùng \\\" tôi bết nhưng người khác không biết\\\". Vùng thứ 3 là vùng\\\" tôi không biết nhưng người khác biết về tôi\\\". Vùng thứ 4 là vùng mà \\\" không ai biêt cả kể cả chính bản thân mình\\\". DO vậy, Để hoàn thiện mình, chúng ta phải nhận biết được vùng thứ 3 \\\" tôi không biết, mong người khác biết dể nhắc nhở, sửa sai\\\" để hoàn thiện mình. Một người làm lãnh đạo theo trường phái quan liêu, chức càng to, bảng ngã cành lớn thì cái vùng thứ 3 này rất lớn. Do đó, họ hiếm khi nghe lời khuyên của người khác ( và thậm chí nguười khác cũng không dám góp ý vì sợ ).
Tôi còn nhớ, lâu lắm rồi, thầy giáo, Nhà thơ Nguyễn Hàn Chung, đã viết:
\\\"Bao lần soi mặt vào gương
Ngỡ như thoáng hiện lại dường như xa
Mảnh gương trong vắt kia mà
SAO tôi nhìn mãi không ra dáng mình
Keo sơn như bóng với hình
Sao tôi nhìn suốt đời mình không ra
Soi vào khắp cõi người ta
Biết bao giwof mới nhận ra chính mình?\\\"
------

Vì vậy,để hoàn thiện mình, chúng ta phải biết lắng nghe những góp ý, đôi lúc là những lời \\\" thuận ngôn nghịch nhĩ\\\". Đức Phật Thích Ca đã dạy \\\" sống nhìn lỗi mình, không nhìn lỗi người\\\", thực ra cũng chỉ là cách hoàn thiện mình từ việc làm giàm vùng mù thứ 3 như đã đề cập ở trên. ĐỪng lo lắng là chúng ta sẽ lộ ra cái dốt, cái xấu trước mặt mọi người mà điều quan trọng là ta phải cảm ơn họ. vì họ đã giúp ta nhận biết cái xấu để sửa sai, trở thành người tốt , hoàn thiện hơn theo thời gian.
Warrent Buffet, tỷ phú giàu thứ 2 nước Mỹ, với tài sản lên đến 37 tỷ USD, người chưa bao giờ thất bại trong thương trường, người sống trong căn nhà bình thường, tự lái xe đi làm, người đã từng được tỷ phú khác chi hơn 2 triệu USD chỉ để được mời ăn trưa và nói chuyện về kinh doanh trong vòng hơn 1 giờ! Người luôn luôn dành ít nhất 1 giờ hàng tuần để nói chuyện về cách sống cho nhân viên dưới quyền dù bận đến đâu đi nữa!
Warrent Buffet chịu ảnh hưởng của tư tưởng triết lý sống của Dale Canergie , và ông  đã để lại thừa kế chỉ vẻn vẹn 90 nghìn USD cho con trai trong khi viết di chúc sung hàng chục tỷ USD vào các quỹ từ thiện khi qua đời. Và, trong 9 nguyên tắc sống của ông,  nguyên tắc đâu tiên là \\\" Không chỉ trích, không oán trách không than phiền - Dont criticize, condermn or complain); Nguyên tắc thứ hai là Thành thật, tận tâm với người khác (Give hosnet, sincere appreciation); nguyên tắc số 5 là Luôn luôn mỉm cưới ( Smile ). Đó là nền tảng cơ bản để giúp ông vượt qua nối lo lắng, thử thách của cuộc đời để đi đến thành công này đến thành công khác.
Chúc vui vẻ.

 


Ngủ rồi love_noborder

Trả lời #1 vào: 21-11-2013 13:19:42
Chúng ta, sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này, ai ai cũng có nhiều lần nóng giận, không kiềm chế được mình. Khi còn bé thơ, chúng ta đòi cha mẹ một cây kẹo nhưng không được đáp ứng, và khóc lóc, ăn vạ,… Lớn lên một chút, bạn bè đùa giỡn thái quá một chút là mặt như quả bí, không thèm nhìn mặt cả tuần. Khi người yêu quên không tặng quà 8/3 cũng bắt đầu gây gỗ….., giãy nãy cả lên. Rồi khi bị tình yêu phản bội, có người lại gieo mình xuống song tự vẫn….. Rồi đến lúc lập gia đình, vợ chồng đôi chút hiểu lầm mà cũng đã thượng cẳng chân, hạ cẳng tay, rồi đập vỡ xoong nồi, nhà cửa. Ra đường , chỉ cần đồng nghiệm nói động một chút đã phùng mang trợn mắt lên. Có trường hợp bị vợ rầy ở nhà, lên cơ quan trút tất cả thịnh nộ vào nhân viên, tạo nên không khí căng thẳng vô cớ nơi làm việc….
Nhìn lại những lần nóng giận trong quá khứ mà ta đã trải qua, đa số những lần nóng giân đều có mặt tiêu cực lớn hơn rất nhiều lần so với mặt tích cực. Một ông Sếp hùng hổ, nóng nảy với nhân viên sẽ khiến cho công ty ai cũng sợ, ai cũng không dám trái lệnh, và răm rắp nghe theo. Tuy nhiên, công việc và hiệu quả của toàn công ty sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bới không khí căng thẳng  khi làm việc. Nhân viên luôn luôn tránh né sếp, và không bao giờ gắng bó với công ty. Họ sẵn sàng nhảy việc khi có cơ hội.
Trong cuộc sống đời thường, có những lúc ta rơi vào tình trạng phẫn uất, muốn chết  quách cho rồi. Nhưng nghĩ lại xem, ta chết thì có ích gì? Có giải quyết được gì không? Trái lại, chỉ làm khổ đau cho người thân của mình. Bao nhiêu tiền để tổ chức lễ này, lễ nọ, nghe những kẻ xấu  bày vẻ linh tinh để người thân quỳ lạy, xỳ xụp, khẩn vái dưới mưa phùn lạnh giá để cầu mong vớt được xác con, rồi bao nhiêu hệ lụy cúng kiếng đàng sau đó nữa.
Có nhiều trường hợp, chỉ vì trong bàn nhậu nói vài câu lỡ mồm lỡ miện, cái sỉ hiện hão bốc lên, thế là đánh nhau, chém giết để thể hiện bản lĩnh giang hồ , đại ca của mình. Lúc đánh nhau thì hùng hùng hổ hổ, nhưng khi đứng trước tòa tuyên án tử hình thì nước tiểu tè hết ra, ướt cả quần. Nghĩ mà nhục đời trai, sao lúc đó , có bản lĩnh thể hiện đẳng cấp đại ca của mình đi để cho bang dân thiên hạ và cả giới giang hồ ngưỡng mộ?
Có trường hợp, vì ân oán , suốt ngày nghĩ cách lập mưu hại người khác để trả thù. Trả thù đâu không thấy, chỉ thấy đêm ngày lo lắng, nặt mày nhăn nheo, má thì tóp lại nhìn như ông lão. Công việc làm ăn thì không lo, dẫn đến nghèo túng, và cuối cùng chết trong oán hận và túng quẫn. Có trường hợp , trả thù được họ rồi, lại bị đối phương truy sát, bị công an truy nã, phải trốn chui, trốn nhủi nhục nhã, bơ vơ , suốt ngày sống trong sợ hãi.
Tóm lại, nóng giận , ngoài sự biểu hiện cho người khác thấy là mình là người kém cỏi, không kiểm soát được bản thân ra thì chẳng có ích lợi gì, Nó làm cho con người chúng ta từ những điều nhỏ nhặt biến thành những sai lầm nghiêm trọng và cuối cùng là nó sẽ hủy hoại cuộc đời chính chúng ta, và cả người thân của chúng ta theo quy luật “ chùm nhân quả”. Sự kiềm chế được nóng giận sẽ làm chúng ta biết sống hài hòa với cộng đồng, biết yêu thương, chia sẻ nhau, làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, nhân văn và nhân bản hơn.
Vậy thì làm sao ta có thể kiềm chế được cảm xúc? Rất đơn giản. Tiến Sĩ Mardy Grothe đã nói “ Thay vì ta nói với hy vọng người khác sẽ lắng nghe thì ta hãy lắng nge với hy vọng người khác sẽ nói”. Vì vậy, ta hãy đặt mình vào vị trí của người khác để quán xét, để đối chiếu xem nếu ta là họ thì ta sẽ như thế nào? Từ đó, chúng ta sẽ đưa ra những cách xử lý phù hợp. Chúng ta phải biết lắng nghe và thấu hiểu họ để tìm cách tháo gỡ những khúc măc, những bất đồng trong đối nhân xử thế.
Sự nóng giận đi qua, hậu quả là chúng ta sẽ bị sự lo lắng ập tới. Chúng ta lỡ đánh người, bây giờ chúng ta lại phải lo lắng vì sẽ đối mặt với pháp luật. Vậy thì ta không được lo lắng. Để chúng ta không lo lắng thì chúng ta phải sống quang minh chính đại, sống không làm khổ mình, sống không hại người, Chúng ta cứ  sống vô tư, thoải mái, đừng làm hại nguwoif khác ngay cả trong suy nghĩ và hành động thì chúng ta sẽ không bao giwof lo lắng. Henry Ward Beeche đã nói” Không phải công việc giết chết con người mà chính là sự lo lắng. Cỗ máy không bị hỏng do bị xoay nhiều vòng mà là do ma sát khi xoay” .
Chúng ta phải biết, phải luôn luôn nhắc mình, nóng giận không giải quyết được điều gì mà chỉ có thể khiến cho chính bản thân ta càng thêm phiền toái mà thôi. Vì vậy, chúng ta phải kiểm soát được tất cả những ý nghĩ và hành động của mình, để nhìn cuộc đời bằng ánh mắt vị tha, nhân văn và nhân bản. Chúng ta không thể chờ tất cả mọi người xung quanh phải trở thành người tốt trước khi ta trở thành người tốt, bởi vì thế giới mà chúng ta đang sống là thế giới có quan hiệ đa chiều, con người , về bản chất là hay nhìn nhau, hay  phê bình, trách móc, soi mói điểm yếu của người khác mà không bao giờ chịu đứng trước tấm gương dù chỉ một phút để soi lại bản thân và tâm hồn mình.