Tác giả Chủ đề: Cùng Suy tư về sự \\\"chết\\\"!!  (Đã xem 3582 lần)

0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.

Ngủ rồi phaoloquoctrung

Trả lời #12 vào: 16-02-2012 13:00:33
@Tieukhe:Thank Tieukhe nhiều...bài phaoloquoctrung viết là từ cha TháiNguyên...nhưng lúc phaoloquoctrung đọc là từ 1 vài bài giảng,suy gẫm của 1 số linh mục...giờ mình gửi lên để cùng chia sẻ...nếu bạn có link dẫn thế thì tốt hơn rồi...thank những lời đóng góp của tieukhe nhiều!

 


Ngủ rồi Tieukhe

  • Thành Viên
  • *
  • Bài viết: 20
  • Thích 0
Trả lời #11 vào: 15-02-2012 23:19:26
@ Phaoloquoctrung: Tieukhe được đọc bài viết của Lm. Thái Nguyên, một vị Linh Mục được nhiều người biết qua những chia sẻ sâu sắc và nhiều bài thánh ca cảm động.

http://www.simonhoadalat.com/giaoducgd/tuduc/84SuyGamVeSuChet.htm

Nếu bạn có dùng một phần hoặc nguyên văn của bất kỳ tác giả nào thì nên trích nguồn để thông tin được đầy đủ, đó là cách đúng đắn nhất trong việc truyền đạt thông tin.

Chúc cả nhà vui.
Thân.

 


Ngủ rồi phaoloquoctrung

Trả lời #10 vào: 15-02-2012 22:36:48
@trexanh:con người mà...cũng phải già theo thời gian thôi!hihi...nhưng thank lời góp ý của trexanh!hihi

 


Ngủ rồi trexanh

Trả lời #9 vào: 15-02-2012 13:17:54
Nhưng theo dõi thấy phaoloquoctrung có đầu óc suy nghĩ \\\"ông cụ non\\\"  
cứ hồn nhiên, vô tư yêu đời như chính tuổi của em đi.

 


Ngủ rồi phaoloquoctrung

Trả lời #8 vào: 15-02-2012 12:37:49
@sat_thu_thu :Chào stt phaoloquoctrung từ nhỏ đã được các Cha trong nhà thờ nuôi dưỡng nên ít nhiều cũng học được 1 số triết lí nhân sinh,nhưng không đủ đâu vào đâu hết...Mong stt sẽ là người thường xuyên đóng góp ý kiến cho phaoloquoctrung về bài viết,lẫn nội dung...thank stt nhiều!
@trexanh:chức tước gì đâu,đó là 1 số bài đã được học qua thôi mà!hihi...còn bạn stt gọi vậy chắc cho vui thôi mà!hiihihi :P  :laugh:

 


Ngủ rồi trexanh

Trả lời #7 vào: 15-02-2012 09:52:36
kakakak chúc mừng phaoloquoctrung đã được stt cho lên chức. mai dẫn đi ăn chè khao chức mới hả phaoloquoctrung ? hihihi

 


Ngủ rồi sat_thu_thu

Trả lời #6 vào: 14-02-2012 20:50:25
@phaoloquoctrung: chắc bạn là cha :) hay là một nhà Thần học giã (théologue)? Xin lổi nếu xưng hô không phải phép. stt từ lúc nhỏ học tới Tú Tài pháp (baccalauréat) đều học trường bà phước (Saint Paul, Regina Mundi ...) có nhớ đọc chổ nào trong Bible:

\\\" TẤT CẢ đều ở trong Thượng Đế, Không có gì ở ngoài Thượng Đế \\\"

(tiếng Đức:
Alles ist in Gott
Nichts ist ausser Gott)

Sở dỉ stt rất thích câu này, là vì nó đúng y chang ý nghĩa của Như Lai Tàng, chính hiệu con nai vàng :laugh: :

Như Lai Tàng, Nhứt Thiết Chũng: Một là tất cả, tất cả là một

Và qua đó, ngay cả nhiều câu trong giáo lý Kito giáo, nếu hiểu nghĩa rộng ra, sẻ thấy nhiều điều giống giáo lý Phật.

Qua câu trên: ta ở trong Thượng Đế, Thượng Đế không ngoài ta.

Chử \\\" ngoại đạo \\\" bên Kito giáo có nghĩa là \\\"người ở đạo khác\\\" còn bên Phật giáo* nghĩa là hướng ra bên ngoài để tìm chân lý mà không tìm bên trong mình, ngay cả những người học Giáo lý Phật mà vẫn vọng ngoại cầu tìm đều là người ngoại đạo.

(*giáo đây là giáo lý chứ không phải giáo phái)

Cám ơn phaoloquoctrung đã cho nhiều thông tin về các triết lý nhân sinh.

 


Ngủ rồi phaoloquoctrung

Trả lời #5 vào: 14-02-2012 06:45:53
Tiếp tục nói về sự \\\"chết\\\" theo quan điểm của nhiều tôn giáo nhé!đặc biệt là kitô giáo

Ngay khi còn sống, con người đã mang trong mình sự chết, vì thế mà con người sẽ phải chết. Chết là một kết thúc của ta trong cuộc sống này, và mọi cái ta sở hữu cũng đều chấm dứt. Thật là một tư tưởng cay đắng cho những ai chỉ biết vui hưởng của cải trần gian, nhưng lại là một viễn tượng đáng khát vọng cho những người sống cơ cực (x. Hc 41, 1). Sự chết nhắc nhở ta về bản chất thật ngắn ngủi, thật mong manh phù du của đời sống con người trên dương thế. Đứng trước định mệnh khắt khe đó, người ta dễ có một nhận định sầu thảm đôi khi sinh ra một thất vọng chán chường (x. Sm 12, 23). Tuy nhiên sự khôn ngoan chân thực thì vượt xa nhận định ấy khi nhận biết thân phận mình nằm trong vòng tay Thiên Chúa. Điều đó giúp ta khám phá ý nghĩa sự sống đích thực qua sự chết. Khi nghĩ đến những người đã chết, chúng ta cũng phải nghĩ tới cái chết của chính bản thân mình. Đó là chuyến đi cuối cùng, một chuyến đi quyết định và quan trọng hơn tất cả, chuyến đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại.
1. Những quan niệm về sự chết ngoài Kitô giáo
         Về phương diện triết lý, mỗi trường phái triết học có một ý niệm về sự chết khác nhau tùy theo nhân loại học của họ:
         - Các thuyết duy vật đều quan niệm cái chết là một hiện tượng tự nhiên, thuộc quy luật sinh lý, tức là việc tiêu tan các yếu tố lý hóa đã khiến cho thân thể sống động.
         - Lập trường của các sinh-hoạt-thuyết (Vitalisme) chấp nhận một nguyên tắc sinh hoạt không có bản ngã. Họ cho rằng, chết là cái nguyên tắc đó trở về với nguyên tắc sinh hoạt của vũ trụ. Chẳng hạn, Bà-la-môn giáo cho rằng, chết là trở về với Brahman, tức là hồn của vũ trụ. Mạnh Tử cũng cho rằng, chết là hợp nhất với vũ trụ. Còn Hégel cho rằng, chết là tan mất trong tinh thần tuyệt đối.
         - Theo Nhị nguyên thuyết xuất phát từ Platon, cho rằng chết là linh hồn được giải thoát khỏi nhà tù thân xác.
         - Triết hiện sinh vô thần thì coi cái chết cũng vô lý như sự sống vậy (J. Sartre).
         - Có những chủ thuyết khác tránh né vấn đề sự chết, chỉ lo sống thôi. Tránh né cũng là hình thức lo sợ, không dám tìm hiểu, không dám đả động đến. Riêng Trang Tử coi cái sống và cái chết là lẽ tự nhiên, bình thường và bình đẳng, nên ông chẳng xao xuyến gì trước cái chết, thản nhiên ra vào cuộc đời: “Bậc chân nhân không ham sống, không sợ chết, vào không vui, ra không buồn, thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi”. Đối với ông, sống chết cũng giống như chuyện Được Mất, mà Được là thời, Mất là thuận. “Thuận Thiên giả tồn”, cứ theo ý Trời thì chẳng phải lo sợ gì.
- Trong Phật giáo, chết được dùng để chỉ sự sinh diệt, thăng trầm của tất cả các hiện tượng, các Pháp. Trong bộ luận Thanh tịnh đạo, vị Đại luận sư Phật Âm (buddhaghosa) diễn tả như sau:
“Theo chân lý tuyệt đối thì chúng sinh chỉ hiện hữu trong một thời gian rất ngắn, một thời gian ngắn như một khoảnh khắc của nhận thức (một ý niệm, Sát-na). Như một bánh xe, trong khi đang lăn cũng như đang đứng yên, chỉ chạm đất ở một điểm duy nhất. Như thế, chúng sinh chỉ sống trong một khoảnh khắc của một nhận thức. Nhận thức này (ý niệm) mất đi thì chúng sinh đó chết”.
2. Kinh nghiệm cận tử
- Đức Đạt-lại Lạt-ma thứ 14
Vị này thường thuyết giảng về khoảng thời gian cận tử và nêu rất rõ những hiện tượng mà các Du-già sư uyên thâm đều tự chứng được. Chính Sư cũng bảo rằng, trong khi thiền định (khoảng 3-4 tiếng), Sư bước qua lại ngưỡng cửa sinh tử 6-7 lần với mục đích trau dồi kinh nghiệm để chinh phục được cửa ải quan trọng này. Sư trình bày như sau:
“Con người chết với một trong ba tâm trạng: thiện, ác và trung tính. Trong trường hợp đầu thì người chết chú tâm đến một đối tượng thiện tính... và vì thế tự tạo cho mình một tâm trạng đầy niềm tin sâu thẳm, khiến người ấy phát lòng từ, bi, hỉ, xả vô lượng. Người này chỉ có thể thực hiện những đức hạnh nêu trên khi họ đã từng trau dồi chúng trong lúc còn sống. Nếu trước khi chết mà người ta có thể phát khởi những tâm trạng thiện trên thì một sự tái sinh hạnh phúc hơn được xem như là chắc chắn.
Nhưng cũng có lúc thân quyến làm xao động tâm trạng của người sắp chết và vô tình làm cho người ấy khởi tâm sân hận. Có khi thân quyến hội họp xung quanh, khóc lóc than thở làm cho người ấy quyến luyến, tham ái. Nếu người ấy chết với một trong hai tâm trạng trên, thì đó là một mối nguy lớn.
Cũng có người chết với một tâm trạng trung tính, nghĩa là không thiện không ác. Trong mọi trường hợp thì tâm trạng trước khi chết rất quan trọng. Ngay cả một người đã có chút ít tiến triển trên con đường tu tập cũng có thể không tự chủ, để tâm tán loạn trước khi chết, khiến cho tham, sân, si nổi lên. Nguyên nhân là những Nghiệp (karma), những Chủng tử (bīja) đã được tích luỹ từ lâu; chúng chỉ chờ đợi những điều kiện thuận lợi để phát hỏa.. Như vậy người chết sẽ bị tái sinh trong ba ác đạo: Súc sinh, Ngạ quỷ và Địa ngục... Tuy vậy, người nào bình thường chỉ biết làm những việc ác nhưng chết với một tâm trạng thiện lành không còn mê chấp nữa, thì có thể tái sinh trong một môi trường hạnh phúc hơn...
Cứ bình thường thì các tâm trạng và lối sống của một người là yếu tố quyết định trong giờ phút chết. Vì thế mà trước khi chết, những tư tưởng đã đi sâu vào cốt tuỷ của con người là tâm trạng chính, là yếu tố chính quyết định sự tái sinh như thế nào...”.
- Các nhà nghiên cứu về kinh nghiệm cận tử
Nhà nghiên cứu có hệ thống đầu tiên là William Barrett (1925), vừa là giáo sư vật lý vừa chuyên về đời sống tâm linh. Vài thập niên sau có Karlis Osis và Hội nghiên cứu tâm linh Mỹ (1959-1973), phối hợp với Haraldson ở Ấn Độ. Họ đã thu thập dữ liệu của hàng vạn người về kinh nghiệm cận tử. Họ cho thấy rằng, hầu hết các trường hợp đều có những đặc điểm chung, chẳng hạn như thấy ánh sáng tỏa ra, cảnh quang tuyệt mỹ, trạng thái nhẹ nhàng, cảm giác vô cùng thanh thản, và gặp lại những người thân yêu. Riêng trường hợp những người tin vào Đức Kitô, thì được gặp Đức Mẹ, các Thánh, khiến họ vui mừng, hạnh phúc, không còn cảm giác đau khổ. Tuy nhiên, trong số đó vẫn có một số người phản ứng với vẻ sợ hãi hoặc từ chối.
Cách chung, đối với những người có cuộc sống tốt lành, thì nhãn giới phút cuối như được chuyển ra ngoài cơ thể để nhìn thấy trước kiếp sau (xảy ra trong khoảng 1/3 nhãn giới phút cuối). Thường là họ thấy những vườn hoa xinh đẹp cách kỳ lạ, trải dài bất tận. Cảnh giới đó đi kèm với thiên sứ hay hồn ma người chết, và trong một số trường hợp, có thể nghe tiếng nhạc từ trời cao vọng xuống. Trong thanh âm và màu sắc rất sinh động như vậy, người hấp hối cảm thấy mình được nhấc bỗng lên. Từ trên cao nhìn xuống, họ có một cảm giác an bình và hạnh phúc, rồi đi vào một đường hầm tối đen, hướng về phía ánh sáng cuối đường hầm. Ánh sáng ấy giúp cho họ ôn lại toàn thể cuộc đời, và không có đánh giá tiêu cực nào về hoạt động đã qua. Cuối cùng, họ miễn cưỡng phải trở về với sự sống này.
Trong cuộc thăm dò ý kiến vào năm 1982 của Gallup, cho thấy khoảng 8 triệu người lớn ở Mỹ quả quyết mình đã trải qua kinh nghiệm cận tử như thế, mặc dù cảm giác mỗi người có khác nhau. Đương nhiên, những cảm giác đó không thể chứng minh một cách khoa học. Tất cả những gì được biết về hiện tượng đó đều dựa trên tài liệu mang tính giai thoại.
Có giả thuyết cho rằng nhãn giới phút cuối chỉ là ảo giác, có thể do thuốc, sốt, bệnh, hoặc thiếu oxy, hoặc mất cá tính gây ra. Tuy nhiên, những ảo giác phát sinh từ những yếu tố đó thường liên quan đến hiện tại, chứ không liên quan đến kiếp sau. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu đã cho làm tất cả cuộc thí nghiệm như thế, đều xảy ra cách khác chứ không xảy ra giống như vậy. Ngoài ra, những người sau khi chết đi sống lại như vậy, phần lớn họ đều hướng về sự phát triển tinh thần hay một đức tin mạnh mẽ, vì biết kiếp sau có thật. Hầu hết những người đó đều khám phá ra mục đích mới và tích cực đối với cuộc sống của mình, tìm thấy ý nghĩa cuộc sống mà trước đây họ không thấy, hoặc xem thường.
Nhãn giới giới phút cuối rất quan trọng đối với môn nghiên cứu cái chết, vì chúng chứng minh rằng, cái chết không phải là sự hủy diệt mà là sự chuyển tiếp tuyệt vời cho những ai đã tích cực sống thiện hảo. Cái chết như vậy là một nghi thức quá hải được trải qua trong ý thức và chân giá trị.
3. Nguồn gốc sự chết và sự sống lại trong Kitô giáo
     Công đồng Vat. II  đã nói lên tình trạng của con người trước cái chết như sau: “Trước cái chết, bí ẩn về thân phận con người lên tới tột độ. Con người không những bị hành hạ bởi đau khổ và sự tiến dần đến tan rã của thân xác, mà hơn thế nữa, còn bị dày vò bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt đời đời... Mọi cố gắng của kỹ thuật, dù rất hữu ích, cũng không thể làm nguôi được nỗi lo âu của con người: bởi vì đời sống sinh vật, dù có được kéo dài thêm đi nữa, cũng không thể thỏa mãn được khát vọng một cuộc sống mai hậu đã được in sâu trong lòng con người.
     Trước cái chết, óc tưởng tượng của con người đành bất lực. Nhưng Giáo Hội, được Mạc khải của Thiên Chúa dạy bảo, quả quyết rằng con người được Chúa dựng nên để đạt tới cứu cánh hạnh phúc sau những khổ cực trần thế này. Hơn nữa, đức tin Kitô giáo còn dạy rằng giả như con người không phạm tội, thì đã không phải chết; sự chết này sẽ bị đánh bại khi Đấng Cứu Thế toàn năng và nhân ái mang lại cho con người sự cứu rỗi mà vị tội lỗi, họ đã đánh mất. Bởi vì Thiên Chúa đã và đang kêu gọi con người đem toàn thân kết hợp với Ngài trong sự hiệp thông vĩnh viễn vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã đem lại chiến thắng ấy khi Người sống lại và nhờ cái chết của Người, Người đã giải phóng con người khỏi sự chết. Vậy đức tin với những lý chứng vững chắc đem lại giải đáp cho bất cứ ai khắc khoải ưu tư về số phận tương lai của mình. Đồng thời đức tin còn cho con người khả năng hiệp thông với những anh em thân yêu đã chết trong Chúa Kitô, và làm cho họ hy vọng rằng những người ấy đã được sống thực sự nơi Thiên Chúa” (GS 18).
Thật vậy, để giải thoát ta khỏi quyền lực Thần chết, trước tiên Đức Kitô đã đến để nhận lấy cho mình số phận tử vong của chúng ta. Ngài thực hiện thánh ý của Chúa Cha là muốn cứu độ tất cả mọi người. Ngài đã chết “vì chúng ta” (1 Tx 5, 10), “cho tội chúng ta” (1Cr 15, 3) để làm hy tế xá tội (x. Dt 9). Nhờ cái chết của Ngài, chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa x. Rm 5, 10), hầu có thể lãnh nhận gia nghiệp muôn đời (x. Dt 9, 15). Ngài đã chiến thắng tử thần bằng sự phục sinh vinh hiển (x. 1Cr 15, 4), nên quyền lực của Thần chết từ đó đã bị vô hiệu hóa (x. Rm 6, 9). Kể từ giây phút đó, tương quan của con người với sự chết đã thay đổi, vì từ nay Đức Kitô chiến thắng sẽ luôn chiếu soi “những người ngồi trong bóng sự chết” (Lc 1, 79).
Qua việc phục sinh, Ngài trở nên thủ lãnh của một nhân loại mới (x.1Cr 15, 45), vì Ngài đã mang tất cả chúng ta đi vào cái chết và sự phục sinh của Ngài. Tuy nhiên, cái chết để được phục sinh này của chúng ta còn phải là một thực tại hiện hữu cho mỗi cá nhân, vì không ai có thể bước vào cõi sống mà không chết đi cho chính mình từng ngày trong cái chết của Đức Kitô để được sống lại như Ngài (x. 2Tm 2, 11).
4. Bài học sâu xa từ sự chết
Không có một đức tin sâu xa, thì cái chết quả là điều kinh khủng, đáng lo sợ, vì không biết cuộc đời mình sẽ đi đâu, về đâu? Do đó, nhiều người muốn tránh né, không muốn nghe hoặc không muốn nói đến sự chết. Léo Buscaglia, một chuyên viên dạy về tình yêu và cuộc sống, chia sẻ tâm trạng của ông khi nghĩ về sự chết như sau:
“Chúng ta phải bắt tay làm hòa với sự chết để chọn lấy sự sống, vì sự chết là một người bạn thân thiết với chúng ta. Nó cho biết những gì chúng ta không thể giữ lại được mãi cho mình. Và nếu bạn muốn sống, thì nên sống trọn vẹn ngay từ bây giờ...
Nếu bạn đã sống mọi khoảnh khắc mà Chúa ban cho bạn, thì bạn sẽ không than van khóc lóc khi cái chết đến... Những người đã chết một cách hạnh phúc là những người từng nỗ lực để sống.
Sự chết là một thách đố. Nó nhắc nhở chúng ta đừng bỏ phí thời giờ. Nó chỉ cho chúng ta phải lớn lên và phải trở nên như thế nào. Nó dạy cho chúng ta biết yêu thương nhau, và phải biết dâng hiến chính mình ngay từ bây giờ...Dầu chúng ta không hiểu gì về sự chết, nhưng điều đó cũng chẳng cần thiết gì. Điều thiết yếu là phải sống bức thông điệp mà sự chết nhắn gởi cho chúng ta”.
Thật vậy, suy gẫm về sự chết là điều cần thiết, giúp ta biết quan tâm hơn đến cuộc sống: làm thế nào để yêu, để tha thứ và để chấp nhận; làm thế nào để tránh những tội lỗi, những vấp phạm, và chỉ còn muốn sống cho Chúa cách trọn vẹn để phụng sự Ngài và phục vụ tha nhân; làm thế nào để khẳng định về chính mình như thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”. Vì thế, “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 39). Chỉ có chết trong tội mới tách rời chúng ta ra khỏi Chúa, còn chết trong Chúa là một giải thoát, đưa chúng ta vào sự sống viên mãn của Ngài.
5. Tận tình với sự chết, nhiệt tình với sự sống
         Theo tiếng Latinh, người chết = defungi: là người đã vĩnh viễn hoàn tất đời mình. Là người Kitô hữu, chúng ta phải biết đón nhận sự hoàn tất đó với một tâm hồn bình an cao cả, vì mạc khải Kitô giáo đã cho biết rằng cái chết như cánh cổng to lớn mở vào thánh điện an vui vĩnh hằng. Như thánh Phaolô đã xác định: vào ngày cuối cùng, cái hư hoại trong ta sẽ trở nên bất hoại, cái khả tử sẽ nên bất tử (x. 1Cor 15, 53).
Chúng ta tin rằng Đức Kitô đã chiến thắng sự dữ là cái chết, nhưng chúng ta cũng biết rằng, Ngài không chiến thắng cái sự dữ gây ra ở trong ta. Nhờ Đức Kitô, trong hy vọng thì tất cả đã thành đạt, nhưng trong thực tế, ta vẫn phải chịu đựng những bất hạnh. Niềm tin và hy vọng không diệt nổi bản năng sinh tồn, nhưng nó đem lại một tâm tình đón nhận bình thản và an vui: “Tôi chết vui cũng như đã sống vui”. Trong tâm tình đó R. Tagore đã cất lên:
“Ôi! Thần chết, ngươi làm cuộc đời tràn đầy lần cuối ...
Những gì ta là, những gì ta có, những gì ta hoài mong, những gì ta yêu thương, tất cả vẫn sâu xa bí mật trôi chảy về ngươi.
Chỉ một ánh nhìn từ mắt ngươi lần cuối là đời ta vĩnh viễn thuộc về ngươi.
Hoa đã kết thành tràng, sẵn sàng chờ đợi tân lang.
Sau tiệc cưới, giai nhân sẽ rời nhà,
một mình ra đi gặp tân lang trong đêm tối quạnh hiu”.
Trong một đoạn thơ khác, Tagore lại cảm nhận như sau:
“Ban mai, ngước mắt nhìn ánh sáng, trong phút giây, tôi cảm thấy mình không phải khách lạ ở thế gian, và Người xa lạ không tên gọi, không hình thù, với dáng dấp mẹ tôi hiền từ, đã giang tay ôm tôi vào lòng.
Lúc lâm chung cũng vậy, Người lạ mặt ấy lại hiện ra như đã từng quen thuộc với tôi từ lâu.
Bởi yêu cuộc đời nên tôi cũng yêu cả sự chết.
Khi mẹ giằng con ra khỏi bầu vú bên này, con òa khóc, nhưng liền đó lại thấy nguồn an ủi ở bầu vú bên kia.
Ôi Thượng Đế, kính lạy Người lần cuối.
Như đàn hạc hoài hương, ngày đêm hối hả bay về tổ ấm trên núi cao, xin cho đời tôi phiêu du tới quê hương vĩnh cửu ngàn thu”.
Quả thật, một cái nhìn đầy lạc quan và hy vọng, một sự cảm nhận thâm sâu về thực tại vĩnh cửu ngay bên cạnh giờ phút lâm chung: “Bởi yêu cuộc đời nên tôi cũng yêu cả sự chết”.
Chúng ta tin rằng: “Trong một giây lát, trong một nháy mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên, những kẻ chết sẽ trỗi dậy mà không còn hư nát ; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cr 15,52). Tuy nhiên, phải tin trong sự chờ mong từ cơn đau quằn quại để sinh hạ chính mình, cũng như toàn thể tạo vật đang rên siết để chờ ngày cứu độ (x. Rm 8, 22). Những đau khổ ở đời này chẳng là gì so với vinh quang sẽ dành cho ta trong cõi vĩnh hằng (x. Rm 8, 18), và đó là một tiến trình tối cần để khai sinh sự sống. Tiếp nhận cái chết như một điều tự nhiên nhất để làm nẩy sinh điều siêu nhiên nhất: đó là sự phục sinh đời sống vốn đã được khắc họa trong ta qua Phép Rửa: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,4). Dưới cái nhìn đó, người Kitô hữu được định nghĩa cách đơn giản là người “tận tình với sự chết, nhiệt tình với sự sống” (Pierre Talec).
Chính vì thế mà không ai có thể đón nhận cái chết thể lý trong niềm hy vọng phục sinh mà lại không cất cao đầu và mở rộng con tim để vượt qua cái chết cho chính mình vốn đã hàm ngụ nơi cuộc sống như thất bại, bị hiểu lầm, bị bỏ rơi, bị loại trừ và khinh thị... Hơn nữa, cần phải giải phóng mình khỏi những gì biến mình thành tù nhân của chính mình, ngõ hầu có thể yêu mến cuộc sống một cách thân thiết ngay bây giờ. Yêu mến cuộc sống là điều không dễ dàng khi cuộc sống đầy bi đát, tàn bạo, xung khắc... Khi đó người ta dễ nhìn vào những bất tất của đời thường như một cái gì phi lý, vô nghĩa, không còn đáng sống. Nhưng nếu chết để mà chết thì chẳng bao giờ là giải thoát.
Sự sống không đơn độc như ta tưởng, vì sự sống đã kết hôn với sự chết. Chết và sống là cặp bài trùng của cuộc hiện hữu nhân sinh. Cặp bài trùng này buộc ta phải thường xuyên chiến đấu để đạt tới con người trưởng thành, con người mới trong Đức Kitô (x. Cl 4, 12). Con người mới không chỉ là con người nội tâm vươn tới chiều kích linh thánh, mà cả con người bên ngoài, trong mọi quan hệ với xã hội. Phải biết nương tựa vào sự soi sáng và sức mạnh của Thánh Linh để chống lại sức bành trướng của sự chết đang ngự trị trong thế giới dưới nhiều hình thức.

                   

 Trích suy gẫm sự chết!\\\"lm:Thái Nguyên\\\"

 


Ngủ rồi sat_thu_thu

Trả lời #4 vào: 14-02-2012 01:01:05
stt xin góp một chút ý kiến bổ túc những gì nói về giáo lý Phật:

Trích dẫn
trích phaoloquoctrung viết:
Quan điểm của Phật giáo:

“Người Phật Tử coi cái chết là một trong 4 khâu của định luật “thành, trụ, hoại, diệt”. Bất cứ sự vật nào thuộc thế giới hiện tượng, nghĩa là có hình có tướng, đều phải trải qua bốn giai đoạn của hiện hữu: Thành (từ chưa có trở nên có), Trụ (tồn tại một thời gian), Hoại (bị hư hoại, yếu dần, suy thoái), và Diệt (cuối cùng bị tiêu diệt, mất đi, không còn tồn tại nữa). Chết chính là khâu cuối cùng của 4 giai đoạn hiện hữu trên cho mọi vật sống, mọi chúng sinh, là giai đoạn từ có trở về không.


Từ đâu sanh ra hiện tượng? Hiện tượng sanh ra từ bản thể. Nói hiện tượng không nói tới bản thể là thiếu sót vô cùng. Như thấy sóng mà không biết sóng từ nước mà sanh ra, là sai sót đáng tiếc.

Hiện tượng sinh ra từ bản thể của vũ trụ muôn loài (bản thể này có nhiều tên \\\"Như lai tàng\\\", \\\"Chân Như\\\", \\\"Chân Tâm\\\", \\\"Chơn Không Diệu Hũu\\\", \\\"Bồ Đề\\\", \\\"A Lại Gia Thức\\\", \\\"Đại viên cảnh trí\\\", \\\"Tri Kiến Phật\\\", \\\"Cực Lạc\\\", \\\"Niết Bàn\\\", Nhứt Thiết Chủng). Bản thể này bàng bạc trong vũ trụ, chứa đựng tất cả chũng tử (Diệu Hữu) không có chổ nào không có, ở trong tất cả pháp nhưng rời tất cả tướng (Chân Không), bất biến nhưng tùy duyên. Bỏ bản thể chỉ thấy hiện tượng, không bao giờ thấy đúng. Bỏ hiện tượng mà tìm bản thể thì không bao giờ tìm ra. Bỏ chơn tìm vọng, bỏ vọng tìm chơn không bao giờ tìm ra. Cho nên không nói , mà cũng không nói không được, mà nói cũng đúng, nói không cũng đúng. Không phân biệt như vậy, gọi là \\\"bất nhị\\\". Như sóng là hiện tượng, nước là bản thể, sóng là nước, nước là sóng, khi phân biệt thì nói sóng không phải là nước, nước không phải là sóng.

Một thí dụ khác: chất mía trong cây mía, trong các loại đường, trong tất cả thực phẩm chứa đựng đường, không chổ nào không có chất mía trong vũ trụ nhưng không chổ nào có nó (Chân Không), chỉ khi cần (tùy duyên) là nó sanh (hiện tượng). Chất liệu mía là bản thể, là Nhân, tất cả những sản phẩm có chất liệu miá bên trong (ngay cả trong thân con người khi ăn thực phẩm có chất đường mía) và trong chất phế thải (khi nó tiêu hóa), rác, đất .... là Quả >>> trong quá trình từ cây mía tới rác mía Nhân Nhân Quả Quả trùng trùng vô tận duyên nhau mà sanh sanh diệt diệt.

Trích dẫn
trích phaoloquoctrung viết:
Ðịnh luật “thành, trụ, hoại, diệt” là định luật phổ quát tuyệt đối cho tất cả mọi sự vật vô thường (hay thay đổi) trong thế giới hiện tượng: Theo định luật này, phàm cái gì có sinh thì phải có diệt, chỉ những cái không sinh mới không diệt thôi
chính là Như lai tàng bản thể không sanh nên không diệt.

Khi nói \\\"hiện tượng\\\" tức phải nói \\\"bản thể\\\". Từ bản thể \\\"như thị biến\\\" ra hiện tượng, khoa học mà muốn giảng giãi từng hiện tượng là phải cắt đoạn ra mà nói, vì hiện tượng thành, trụ, hoại, không, thay đổi từng sát na. Sự sống, hiện hữu, cũng phải cắt đoạn ra mà CÓ. Nhưng hiện tượng nó thay đổi triền miên nên gọi là KHÔNG CÓ. Hiện tượng sanh diệt, bản thể không sanh diệt.

Phật giảng giải sự sanh ra của hiện tượng bằng Thập Như Thị, bao gồm tất cả, không cắt đoạn ra mà nói, còn biết bao hiện tượng khoa học không nói tới, như bác sĩ phẫu thuật xong rồi thì giao cho thân tâm \\\"như thị biến\\\" (vết thương lành lại hay lại còn sanh thêm hiện tượng khác là nhiễm trùng v.v...)

Có người hỏi \\\"con gà có trước\\\" hay \\\"trứng gà có trước\\\"?
Con gà, trứng gà là hình tướng, sanh ra từ chất liệu \\\"gà\\\" là bản thể, bản thể có cùng khắp, tùy \\\"tâm\\\" mà hiện (có phân biệt là vọng tâm), nơi nào cũng có (là Nhân) mà không nơi nào có (nếu không gặp duyên thành \\\"Quả) . Cho nên cả con gà và trứng gà sanh ra tùy duyên, không nói trước nói sau, thật ra phải nói là đều KHÔNG CÓ vì sanh rồi diệt, thay đổi từng sát na, mà nói là lúc nào cũng (bản thể chất liệu \\\"gà\\\" không sanh diệt). Chơn tâm tác động vào giống gà thì thành chất liệu gà, sanh ra con gà, tác động vào trứng gà thì sanh ra trứng gà. Tác động vào mắt thì mắt thấy, tác động vào tai thì tai nghe, dù không có âm thanh cũng nghe (nghe không có âm thanh), tác động vào mũi thì mũi ngửi, .... tác động vào ý thì biết, tác động vào thức thì biết phân biệt ...

Bản thể không sanh không diệt, không thủy không chung, theo luật đồng dị mà sanh ra hiện tượng.
Đồng chũng tương hợp, dị chủng tương kích,
Đồng năng tương bộ, dị năng tương để,
Đồng tánh tương cự, dị tánh tương hấp, ... hợp chia, chia hợp, tự nó làm, tự nó đào thải, tự nó sanh trưởng, tự nó thu hút, tự nó chống đối, tên nó là Nhứt Thiết Chủng, nó chứa tất cả chủng tử, từ đó sanh ra hiện tượng vạn pháp, thiên hình vạn trạng. Bản chất của nó, truy nguyên cuối cùng là , tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc, không có gì hết mà CÓ TẤT CẢ, (thanh tịnh bản nhiên, châu biến pháp giới, tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng, tùng nghiệp phát hiện).

Các chũng tữ (Nhân, hạt) không phân chia được (như nói trên), nhưng tạm phân chia ra làm 7 cái lớn bao trùm vũ trụ: đất, nước, gió, lửa, hư không, kiến, thức (Địa Đại, Thủy Đại, Phong Đại, Hỏa Đại, Kiến Đại, Thức Đại), loài vô tình là hiện tượng sanh từ 5 đại đầu, loài hữu tình sanh từ tất cả 7 Đại. Đại là bao trùm vũ trụ, chổ nào cũng có. Chứa đựng trong cái gọi là Không Như Lai Tàng (tàng là kho) tạm đặt tên vậy mà thôi. Thất đại dung nhau không trở ngại, tác động triền miên lên nhau (nhân, duyên vô tận) sanh ra thiên hình vạn trạng.

Trích dẫn
Phật giáo quan niệm, chết không phải là hết hay chấm dứt mọi cảnh khổ đau nhưng là tiếp tục cho đến khi hoàn toàn giải thoát được hết các ác nghiệp. Luân hồi trả nghiệp không chỉ là quan điểm Phật giáo mà còn là quan điểm của các tôn giáo khác trước khi Phật giáo ra đời như Ấn giáo, Bà-la-môn giáo. Thế nên, chết không phải là hết mà chỉ là sự thay đổi từ cảnh giới này sang cảnh giới khác.

Đối với Phật giáo, những giây phút cuối đời người thân sắp từ giã cõi trần, người Phật tử lưu tâm, lắng lo và nâng đỡ họ có những tư tưởng và tâm tình tốt đẹp, hướng thiện, nghĩ về những hình ảnh đẹp, cao thượng, để người thân sắp biệt ly có thể vãng sinh tới nơi tốt lành, tạo điều kiện cho họ tiến tới cảnh siêu thoát, tới niết bàn.


Giáo lý này tuy trong kinh Phật có nói, nhưng đó là Chơn lý Tục đế cho người thế gian (tục) dể hiễu. Là Giáo lý Bất liễu nghĩa. Người trí tuệ nên nghĩ sâu hơn. Liễu nghĩa là hết nghĩa của nó. Như trong một hành trình mệt mỏi, Phật chỉ xa xa có cái thành vào đó nghĩ mệt rồi đi tiếp. Thấy cái thành là mệt mỏi tiêu tan, hy vọng trở lại để mà tiếp tục đi.

Chân tâm của mọi người mọi loài là bản thể thanh tịnh, trong sạch vắng lặng, vì vọng tâm phân biệt nên ta thấy có dơ có sạch, có tốt có xấu, thậm chí có người có ta, sanh ra mọi hiện tượng tâm, sinh lý! Là Như lai tàng, thì làm gì có sống chết theo hiện tượng? Cái hiện hữu đây thậm chí không gọi là Nhơn được, mà phải gọi là sát thũ thú, một chỉnh thể gây nhơn chịu quả tuy có đó mà thật là không có, phù du, như hoa đốm giữa hư không, là mộng, là huyễn. Không có nhưng lại bất diệt theo bản thể. Một nhân không diệt, đó là nhứt thiết chủng, duyên sanh ra mọi hiện tượng. Như vậy tất cả mọi loài là Phật, là Như lai tàng, không sanh không diệt. Không phải là những cái Ngã (vọng tâm phân biệt) luân hồi sanh tử theo sự sanh diệt của hiện tượng. Như nước không sanh diệt theo sóng. Hiễu như vậy thì đã đạt được Thường, Lạc, Ngã, Tịnh chớ không cần nghĩ: đời là vô ngã, bất tịnh, khổ, vô thường (tục đế). Vì đó chỉ là hiện tượng.

Phật giáo chủ trương không chấp Đoạn (chết rồi hết không còn gì nửa) hoặc chấp Thường (còn một linh hồn trường tồn vĩnh cửu, từ kiếp này qua kiếp khác), xin chớ hiểu lầm, luân hồi qua sanh tữ chỉ là chơn ly thế gian (tục đế) chớ chưa phải là Nhứt thiết nghĩa đế.

(đế là chơn lý, chơn lý là cái gì không thể thay đổi, không thể phá hoại được)

Giáo lý Phật sâu rộng mà rất khoa học thực tế. Không hiễu tường tận dể sanh ra mê tín, không tin nơi mình mà tìm ở bên ngoài (thần thánh, phật tượng, thượng đế, thế giới cực lạc) tự tạo ra một thế giới vô hình (vô sắc giới) vô cùng huyển hoặc mà bỏ qua không sống đúng theo chơn lý mà chấp ngã (chấp có thân tâm này) chấp pháp (sanh diệt theo hiện tượng) theo giòng sanh diệt mà vĩnh viễn khổ đau. Sanh diệt không phải là khổ đau, bởi vì sanh không thật là sanh, diệt không phải thật diệt, vì chấp ngã chấp pháp phân biệt làm khổ đau. Điên đảo lấy khỗ làm vui (như người ghiền ma túy) không biết thân tâm an lạc, bản thể thanh tịnh bất biến là cái vui chơn thật không thể phá hoại.

Mong thay

 


Ngủ rồi phaoloquoctrung

Trả lời #3 vào: 13-02-2012 18:43:15
Đó là phaolotrung sưu tầm thôi!hok có gì đâu!
nhưng đó là đều mà nhiều người cần phải suy nghĩ đến!
đọc để cảm nhận,đọc để suy tư,đọc để hiểu,đọc để thấy được sự chết là như thế nào?...

 


Ngủ rồi start2404

  • Người Tôi Cưu Mang
  • ****
  • Bài viết: 1.245
  • Thanked: 33 times
  • Thích 2
  • Giới tính: Nam
Trả lời #2 vào: 13-02-2012 18:08:04
Thanks bác phaoloquoctrung về bài viết khá hay.
Với start2404 khi nghĩ về cái chết start2404 lại ngheĩ đến[video size=320 width=320 height=320]http://www.youtube.com/watch?v=bDCFhzdOOFM[/video] BH này.

Chúc mọi người thưởng thức vui vẻ.

Ta lang thang về miền vô định,
Cõi trần ai lắm cảnh đau thương.
 


Ngủ rồi phaoloquoctrung

Trả lời #1 vào: 13-02-2012 17:42:04
Suy tư về cái chết của phận người và về cái chết của chính mình sẽ nhận ra giới hạn của kiếp người, của bản thân, tính bất định của sự sống. Qua đó, con người có thể sống tốt hơn, tương quan với tha nhân và yêu thương đồng loại nhiều hơn. Biết chia sớt nỗi niềm, thông cảm, tin yêu và phó thác. Biết chấp nhận và đón nhận bình thản cái chết một cách nhẹ nhàng.
Chuyện xui xẻo, người ta tránh né. Chuyện không may, chẳng ai muốn nhắc đến làm gì. Cái chết, chuyện xui, người ta thường nghĩ thế. Bởi, chết chóc là tang tóc, là thương đau, ai nào muốn. Chết là sự ly biệt, là giọt nước mắt chảy dài của kiếp người. Tang thương vô cùng!

“Anh nằm xuống như một lần vào viễn du
… Đất hoang vu khép lại hẹn hò
… Như cánh chim bỏ rừng
Như trái tim bỏ tình
Nơi đây một lần nhìn anh đến
Những xót xa đành nói cùng hư không.”
(Trịnh Công Sơn, Cho một người nằm xuống)

Không ai muốn chết. Nói khác đi, người ta ham sống, sợ chết - tham sinh úy tử. Họa hiếm có người suy tư về phận người, suy tư về sự chết. Nhưng, dù muốn dù không, tử thần vẫn cứ đến ghé thăm từng cuộc đời. Sợ lắm, nhưng đành phải khoanh tay chấp nhận!
Ai cũng phải chết. Đó là sự thật không tránh khỏi. Chẳng phải vô lý mà cố nhạc sĩ họ Trịnh đặt suy tư của mình trên dòng nhạc:
“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi,
Để một mai tôi về làm cát bụi.”
(Trịnh Công Sơn, Cát Bụi).

Tôi đến là để trở về làm cát bụi, chứ chẳng phải hóa thân làm kiếp người mãi đâu. Triết gia Heidegger cho rằng: Không ai chết hai lần và cũng không ai trường sinh bất tử; không ai chết thay ai, mỗi người đều phải chết cho cái chết riêng tư của mình. Do vậy, tôi phải biết thao thức về cuộc đời, suy tư về phận người và ngẫm suy về sự chết.
Tháng 11 là tháng Cầu Hồn. Tháng nhắc nhở mỗi người kitô hữu chúng ta phải có trách nhiệm nhớ đến những người đã khuất, cầu thay nguyện giúp cho họ và cũng là dịp để nhắc nhở chính bản thân mình. “Hodie mihi, cras tibi” – Nay người, mai ta là thế!
Chết là hết hay chết là bước vào một thế giới khác? Có thật một sự sống sau khi từ giã cõi đời này hay đó chỉ là sự hão huyền, giả tưởng? Câu hỏi vẫn cứ đặt ra cho con người từ ngàn xưa đến ngàn sau.
Từ ngàn xưa đến ngàn sau, muôn người vẫn còn thao thức và băn khoăn cho một lời giải đáp. Bởi sống - chết là một mầu nhiệm. Con người phải biết sống để khám phá huyền nhiệm đời mình. Thao thức, cật vấn về đích điểm, tận cùng của kiếp người là gì, nghĩa là vẫn còn trăn trở để đi tìm cho mình một lẽ sống. Tôi chẳng phải là triết gia để có thể đặt nền móng cho một dòng suy tư mới. Chắc chắn là thế. Hơn nữa, phận tài hèn mọn, trí tài sơ thiển, tôi chỉ xin được mạo muội gom góp những suy tư vụn vặt như hạt cát ở dưới đại dương, tựa giọt sương chìm trong biển lặng, mong rằng cũng có thể làm giọt nước mát giữa trưa hè oi bức cho lữ khách đường xa, hay làm đốm lửa lập lòe để soi bước đường ai trong đêm tối, hoặc có thể chỉ là ngọn gió để mong làm lay chuyển cánh lá khô gầy mùa Đông trơ trụi, cũng có thể là lời thức tỉnh cho những ai đang mê ngủ trong vỏ bọc hưởng thụ vinh quang trần thế.

 
 
Quan điểm của Phật giáo
“Người Phật Tử coi cái chết là một trong 4 khâu của định luật “thành, trụ, hoại, diệt”. Bất cứ sự vật nào thuộc thế giới hiện tượng, nghĩa là có hình có tướng, đều phải trải qua bốn giai đoạn của hiện hữu: Thành (từ chưa có trở nên có), Trụ (tồn tại một thời gian), Hoại (bị hư hoại, yếu dần, suy thoái), và Diệt (cuối cùng bị tiêu diệt, mất đi, không còn tồn tại nữa). Chết chính là khâu cuối cùng của 4 giai đoạn hiện hữu trên cho mọi vật sống, mọi chúng sinh, là giai đoạn từ có trở về không.
Ðịnh luật “thành, trụ, hoại, diệt” là định luật phổ quát tuyệt đối cho tất cả mọi sự vật vô thường (hay thay đổi) trong thế giới hiện tượng: Theo định luật này, phàm cái gì có sinh thì phải có diệt, chỉ những cái không sinh mới không diệt thôi. Hễ cái nào đã từng sinh ra, nghĩa là trước chưa có mà sau lại có, ắt thuộc loại bất tất, vô thường, hay thay đổi, mà thay đổi tức là phải “thành, trụ, hoại, diệt”, cuối cùng phải bị hủy hoại, tiêu diệt, nghĩa là chết.” (Nguyễn Chính Kết, quan niệm của Phật giáo về cái chết, định luật cho thế giới hiện tượng).
Phật giáo quan niệm, chết không phải là hết hay chấm dứt mọi cảnh khổ đau nhưng là tiếp tục cho đến khi hoàn toàn giải thoát được hết các ác nghiệp. Luân hồi trả nghiệp không chỉ là quan điểm Phật giáo mà còn là quan điểm của các tôn giáo khác trước khi Phật giáo ra đời như Ấn giáo, Bà-la-môn giáo. Thế nên, chết không phải là hết mà chỉ là sự thay đổi từ cảnh giới này sang cảnh giới khác.
Đối với Phật giáo, những giây phút cuối đời người thân sắp từ giã cõi trần, ngườAi Phật tử lưu tâm, lắng lo và nâng đỡ họ có những tư tưởng và tâm tình tốt đẹp, hướng thiện, nghĩ về những hình ảnh đẹp, cao thượng, để người thân sắp biệt ly có thể vãng sinh tới nơi tốt lành, tạo điều kiện cho họ tiến tới cảnh siêu thoát, tới niết bàn. Điểm này, Phật giáo có nét tương đồng với Công giáo. Người sống có thể giúp đỡ người sắp lìa trần hướng thiện, tin tưởng vào tình thương của Chúa, ăn năn sám hối các tội lỗi, bớt cảnh khổ đau, giảm thiểu các hình phạt mà sau khi từ giã cõi đời họ phải đền bù để được chóng hưởng tôn nhan Thiên Chúa, Đấng sẽ ban cho họ hạnh phúc muôn muôn đời.
Vì thế, người phật tử luôn sống vươn lên, hướng thiện, ăn chay tụng niệm, cứu giúp chúng sanh, mong cho mình và mọi người sau này được cứu thoát, đạt cảnh giới, siêu thoát, tiến tới niết bàn, “kiến tánh” để trở “thành Phật”. Người phật tử sống có mục đích, có sự sống đời sau nên họ làm lành lánh giữ, sống công bình bác ái, giúp đỡ tha nhân và yêu thương đồng loại. Giáo lý của Phật giáo về sự chết và về sự tồn tại sau khi chết là một cách giải đáp những thắc mắc sâu xa của con người.

Quan điểm của Kitô giáo
Dĩ nhiên, đối với người Kitô hữu, chết không phải là hết mà là bước vào một đời sống mới, đời sống vĩnh cửu trong Đức Kitô Phục sinh – Đấng đã chết và sống lại và ban cho nhân loại sự sống vĩnh hằng, nơi con người không bao giờ phải chết nữa. Người Công giáo vẫn dâng lời ca tiếng hát cho người quá cố : “Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi”. Hoặc ông, bà, anh, chị đã về nhà Cha, hay đã được Chúa gọi về. Trong kinh tiền tụng cầu cho người tín hữu đã qua đời: “Lạy Chúa, đối với những người tin kính Chúa, sự sống không bị hủy diệt, nhưng được biến đổi, và khi thời gian sống của họ trên trái đất này chấm dứt, họ có được một nơi cư ngụ vĩnh viễn trên quê trời”. Ông bà ta cho rằng chết là cuộc hành trình trở về quê hương đích thực, nên mới có chuyện sinh ký tử quy – sống gởi thác về. Sách giáo lý Công giáo nói: “Chết là kết thúc cuộc lữ hành trần thế, kết thúc thời gian Thiên Chúa gia ân và xót thương để mỗi người thực hiện cuộc sống theo ý định của Ngài.”
Chết là linh hồn lìa ra khỏi xác, đợi chờ sự phán xét của Thiên Chúa: được lên thiên đàng, trong luyện ngục hay bị đọa đầy ở hỏa ngục; được vinh phúc hay bị kết án. Ở một trong ba cõi nào là tùy thuộc vào đời sống của chúng ta chọn lấy khi sống ở trần gian này.
Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn về 10 cô trinh nữ:
“Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. Nửa đêm, có tiếng la lên: \\\"Chú rể kia rồi, ra đón đi! \\\"Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. Các cô dại nói với các cô khôn rằng: \\\"Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi! \\\"Các cô khôn đáp: \\\"Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.\\\" Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: \\\"Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với! \\\"Nhưng Người đáp: \\\"Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả! \\\"Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.” (Mt 25,1-13).
Khi giờ khắc đến, chúng ta phải ra nghênh đón Đức Kitô như cô trinh nữ ra đón chàng rể. Lúc đó, ngọn đèn dầu tình yêu, tức lòng thành đạo đức kính mến tôn thờ Chúa và yêu tha nhân phải cháy sáng như những ngọn đèn của năm cô khôn ngoan. Nếu vì tội lỗi làm tắt ngọn đèn yêu mến, ta còn có cơ hội để thắp lại ngọn đèn bằng tâm tình thống hối ăn năn. Nhưng một khi giờ khắc là cái chết đến mà ngọn đèn leo lét kia vụt tắt, thì giờ khắc đó coi như đã đoạn. Giống như năm cô khờ dại mang đèn mà không chuẩn bị dầu, tức là lòng yêu mến, các nhân đức, để ra đón chàng rể. Lúc đó, nếu có gõ cửa thì cũng chỉ có tiếng vọng ra rằng: Ta không biết các ngươi là ai!
Như vậy, cuộc sống của ta mai sau như thế nào, là còn tùy thuộc vào lối sống của ta ở đời này. Thánh Gioan Thánh Giá bảo rằng: khi tuổi đà xế bóng, lúc ngưỡng cửa cuối cùng của đời người, ta sẽ được xét xử theo công bằng và tình yêu. Do đó, ta phải biết chuẩn bị hành trang, để hơn bất cứ lúc nào, được Thiên Chúa kêu mời, ta sẵn sàng hân hoan và tin tưởng ra đi, một sự ra đi trong an bình, không run rẩy sợ sệt, vui vẻ đón nhận cái chết trong ơn lành và tin tưởng vào Đấng luôn muốn sự tốt lành nơi ta, để ta cũng có thể cảm nhận như thánh Ambrôsiô: Thiên Chúa định liệu sự chết như một phương thuốc để cứu chữa tội lỗi. Một thứ thuốc mà ta không nên sợ hãi, bởi vì chính Ngài là Vị Lương Y Tốt Lành đã cho toa đúng liều lượng vì lợi ích của mỗi người. Hay một cách thanh thản, vui tươi, hồn nhiên như thánh Đaminh Saviô coi sự chết thật nhẹ nhàng, yên vui khi được Chúa gọi về, vì tin rằng Thiên Chúa – vị Thầy tốt lành sẽ công thưởng cho những ai sống giới răn yêu thương của Ngài. Hoặc là một lòng khát khao, khắc khoải tìm về chốn quê thật như thánh Augustine: tâm hồn tôi khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên bên Chúa. Hay như thiền sư Suzuki, cùng với những người theo Thiền, cái chết không phải là điều kinh hoàng: “Con người với cái chết là một cũng như con người với sự sống là một.” Trước sau vẫn là một thái độ bình thản, an vui khi giờ khắc đến.
Hơn lúc nào hết, chúng ta phải biết chuẩn bị sẵn sàng, để bất cứ lúc nào Chúa muốn, Ngài mời gọi ta trở về với Ngài, ta sẵn sàng gác lại mọi chuyện để bước đi trong bình an, thanh thản. “Cẩn tắc vô ưu!”Quan điểm của người vô thần
Chủ nghĩa vô thần hay thuyết vô thần, là một quan điểm khẳng định rằng thần thánh không tồn tại, hoặc phủ nhận “đức tin” vào thần thánh. Từ “vô thần” còn được định nghĩa một cách rộng hơn là sự không có đức tin vào thần thánh, đồng nghĩa với phi thần luận (nontheism). (Bách khoa toàn thư - Wikipedia).
Theo nghĩa chính xác, chủ nghĩa vô thần là chủ trương phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chúng ta nói: Sự hiện hữu của Thiên Chúa, chứ không nói: sự hiện hữu của các thần minh, bởi vì đối với người Kitô hữu, “Ngoài Thiên Chúa ra chẳng có ai là Thiên Chúa” và “chư thần dân ngoại chỉ do tay người thế tạo thành”. (Các hình thức vô thần theo hiến chế mục vụ).
“Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, Mác nói. “Thượng Đế đã chết” triết gia Nietzsche bảo vậy. Vì coi tôn giáo là thuốc phiện, vì cho rằng Thượng Đế đã chết, họ chủ trương lối sống vô thần và chết là hết, không có chi phải bàn cãi, chẳng còn gì sau cái chết.
Có nhiều người quan niệm rằng chết là chấm hết. Đó là một sự giã từ vĩnh viễn. Sự giã từ này không luyến tiếc, không thương nhớ, chẳng khắc khoải âu lo. Vì không có bờ bên kia của sự chết. Tất cả đều đặt trong một chữ “hết”. Chết là hết! Đó là quy luật, là định mệnh không thay đổi. Có chi phải buồn, có chi phải lo xa, hơi sức đâu mà khắc khoải, có đâu sự sống mai sau. Vì quan niệm đời này đã không được gì, đời sau cũng chẳng có, vậy tội chó gì mà không hưởng thụ, không sống cho sướng cái thân. Thật đúng với Aritippus, chủ nghĩa khoái lạc (435-356 trước CN): Hãy ăn uống, tận hưởng mọi vui thú trần thế, hãy hành lạc và hưởng lạc, vì rồi mai đây chúng ta sẽ chết. Nguyễn Công Trứ cũng đã có lần dùng câu ca dao để nói về cõi nợ phong lưu đời mình thì phải:
             “Chơi xuân kẻo hết xuân đi,
                         Cái già sồng sộc nó thì theo sau.”
Cứ ăn, cứ thỏa mãn vui chơi, cứ hưởng lạc. Đằng nào cũng chết mà!
Vì nghĩ như thế, quan niệm như thế, nên đâu có lo lắng, băn khoăn, khắc khoải gì. Cứ thế mà sống. Sống mà như không có vấn đề. Sống mà chẳng hề biết đến ai. Cứ ung dung tự tại cho một đời sống. Sống cho thỏa chí những ước muốn, những đòi hỏi, những tham vọng của lòng mình.
Đích điểm là gì? Hậu quả là đâu? Xã hội ra sao?
Vì một lối sống không vấn đề, nên sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi. Cứ việc ăn trên ngồi trốc, cứ việc chỉ tay năm ngón, cứ trên phán sao dưới rắm rắp phải nghe theo làm vậy, cứ tự tiện bóc lột, cứ thỏa thuê đàn áp, cứ bức hiếp dân lành, cứ phè phỡn trong lạc thú. Vì sống không có vấn đề mà!
Có phải vậy không, gần đây cư dân trên mạng xôn xao và căm phẫn vì trái tim con người đã khô cứng, mất hết lương tri, tình người khi đối xử với bé Duyệt trong lúc tai nạn thương tâm như thế. Một xe đã cáng nát chân em, khiến em như chết đứng. Xe thứ hai lại cáng lên em, khiến em như chết lần thứ hai. Rồi bao nhiêu con người khác đi qua, lòng lạnh lùng, thấy thế rồi tránh qua một bên, bỏ mặc em nửa sống nửa chết. Thật xót xa! Thương tâm quá!
Sự kiện qua đi, nhưng lòng người vẫn cứ mãi nhức nhối: Đâu là giá trị của sự sống? Lương tri con người nằm ở đâu? Tại sao con người lại có thể cư xử với nhau như vậy?
           Tại sao ư? Câu trả lời dễ lắm. Bởi sống không có vấn đề. Sống không cần niềm tin hay tâm tình tôn giáo. Vì không tin có bờ bên kia của sự chết. Một thứ sống “vô thần”. Từ vô thần rồi trở thành “vô luân”!
Đến đây, tôi nhớ tới triết gia Soren Kierkegaard, một ông tổ của ngành triết học hiện sinh trung thực. Cuộc đời ông như được chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn hiếu mỹ, luân lý và tôn giáo. Dĩ nhiên cuộc đời của ông có những giai đoạn vươn lên hết sức tuyệt vời. Đặc biệt ông có bước nhảy của đức tin (giai đoạn tôn giáo). Nhưng ở đây tôi chỉ xin đề cập tới giai đoạn hiếu mỹ. Ở giai đoạn này, ông chỉ biết đi tìm cái đẹp và hưởng thụ bao nhiêu có thể. Trong nhật ký, ông tự sự: Mỗi một cô gái là một cái đẹp. Bao nhiêu cô gái là bấy nhiêu cái đẹp. Hưởng nếm cô gái này thì khác muôn vàn cô gái khác… Ông tranh thủ, ông khẩn trương, ông tìm mọi cách để thỏa mãn những đam mê dục vọng của lòng mình. Bởi con người hiếu mỹ không biết đến luân lý. Con người này cũng không có khái niệm về tôn giáo. Không có luân lý để sống trong vòng kiềm tỏa của luật đạo đức; không có niềm tin tôn giáo để biết hướng nhìn lên và đi tìm cho mình giá trị sống bằng luật lương tâm. Con người này sống bằng cảm giác và bị chi phối bởi giác quan. Chỉ biết sống theo sự đòi hỏi của bản năng và tìm cách làm thỏa mãn dục vọng đê hèn và tìm kiếm những thị hiếu tầm thường. Thật nguy hiểm!
Cuộc sống ở đời này mong manh mà bấp bênh lắm, kết thúc lúc nào không ai biết, vì “sinh hữu hạn, tử bất kỳ.”
Cứ ăn chơi đi, cứ sống theo những đòi hỏi của bản năng thấp hèn đi, cứ hưởng thụ đi, cứ bám víu và cậy dựa và những của cải mình có đi, nhưng nếu “nội ngay đêm nay, người ta đòi mạng ngươi thì những gì ngươi có sẽ thuộc về ai?” (Lc 12, 20). Chỉ cần hỏi như thế thôi cũng đã đủ để biết mình đi về đâu rồi. Con người ta không ai sống mãi ở đời, cũng chẳng một ai trường sinh bất tử - Nhân sinh tự cổ thùy vô tử là vậy.
“Con chim ở đậu cành tre,
            Con cá ở trọ trong khe nước nguồn,
            Tôi nay ở trọ trần gian,
            Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời.”
                                            (Trịnh Công Sơn, Ở Trọ).
Chúng ta – phận người chỉ là kiếp đời mong manh, một đời sống tạm bợ, gió thoảng, mây trôi, mau qua, chóng tàn hay chỉ là quán trọ của lữ khách trần gian. Níu kéo để làm gì, bám víu để làm gì, rồi cũng ra đi tay trắng! Trịnh Công Sơn quở trách chính mình và người yêu của ông vì những quyến luyến với cõi đời trần tục. Ông tự hỏi và cũng là để nói về chính mình:
“Tôi là ai mà còn trần gian thế?
             Tôi là ai, là ai, là ai,
             Mà yêu quá đời này.”
(Tôi ơi, đừng tuyệt vọng)

Thực tại sự chết
Nói gì thì nói, dù tin hay không, có niềm tin tôn giáo hay vô thần đi chăng nữa, cuộc hành trình của mỗi người trên dương thế dài hay ngắn, lâu hay mau, tất cả đều được kết thúc bằng cái chết. Khi bước vào biên giới vĩnh cửu, nghĩa là bờ bên kia của sự chết, con người phải bỏ lại tất cả những gì mình có thuộc về thế giới vật chất. Trịnh Công Sơn cũng đã từng trăn trở băn khoăn về phận người, “chẳng biết nơi nào là chốn quê nhà”, nên đời cứ mãi quẩn quanh:
“Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi,
             Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
            Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt,
             Rọi xuống trăm năm một cõi đi về.”
                                       (Một cõi đi về)
May lắm, cuối cùng ông cũng nhận ra đời người là đi về chứ không phải đi tới. Lúc trầm lắng hay u hoài, ông dạo đàn gẩy khúc tình ca, ngân ca câu hát phận đời: “Những ngày ngồi rủ tóc âm u. Nghe tiền thân về chào tiếng lạ.” (Cỏ xót xa đưa). Có lẽ, ông cũng nghe như hiểu được người “kiếp trước” và người “kiếp sau” kết nối với nhau bởi dòng xoáy của ý thức và luật nhân quả, nên đặc tính của một kiếp này bắt nguồn từ những đặc tính của “kiếp khác”. Như vậy, chết đâu phải là hết. Người sống và người chết có liên hệ mật thiết với nhau. Người sống phải có trách nhiệm nhớ đến những người đã khuất vì đó là tình người, vì ơn cả nghĩa dày, vì loài người với nhau. Nhớ đến để cầu siêu cho họ và cũng là thương đến họ. Những lúc làm người ai chẳng có những sai phạm này lầm lỗi kia; biết đâu họ còn vướng bận trong kiếp người mà mong chờ sự trợ giúp nơi ta. Điều đấy cần lắm. Chắc chắn họ cũng cầu thay nguyện giúp và độ trì cho ta nơi dương thế này. Bởi “Người chết nối linh thiêng vào đời” (Nối vòng tay lớn).
Người Công giáo không chỉ là nhớ đến những người đã khuất mà còn dành riêng một tháng để tưởng niệm và cầu nguyện cho họ. Chúng ta cũng hiểu được rằng, dù con người có cố gắng đến mấy, tốt lành đến mấy, nhưng vẫn có lúc không tránh khỏi những sai phạm lầm lỗi. Có những lỗi phạm từ phía mình, có những sai lầm gây ra từ phía người. Đức công bình bác ái, đức yêu thương phục vụ, lẽ ra, khi còn sống ta phải kiến tạo dựng xây và làm cho anh em, nhưng “giờ khắc” đến, ta chưa kịp làm hay chưa làm đủ khi còn tại thế. Vậy giờ đây, hơn bao giờ hết, họ đang mong chờ, van nài tình thương và sự trợ giúp nơi ta. Nên chúng ta cũng phải nhớ đến, thương yêu người quá cố, tha thứ và cầu thay nguyện giúp cho họ. Xin Chúa mở rộng lòng khoan hồng mà tha bớt các hình phạt cho các linh hồn đang còn vướng mắc nơi luyện tội, để họ mau chóng được hưởng phúc lộc quê trời và diện kiến nhan thánh Chúa. Đó cũng là lời cầu nguyện liên lỉ trong mỗi cuộc đời chúng ta, để dù sống, chúng ta biết sống cho Chúa và tha nhân, biết yêu thương, phục vụ, biết lo lắng và sẻ chia những gánh nặng đầy vơi, những vui buồn sướng khổ, tinh thần cũng như vật chất; và dù có chết, chúng ta được chết trong vòng tay yêu thương từ ái của Đấng Toàn Năng, trong an bình hạnh phúc. Nguyện xin cho mỗi người trong chúng ta cũng biết nhận ra phận người mỏng dòn, yếu đuối mà sống sao cho xứng hợp, đừng để như Đại tá Gaddafi chết trong sự nguyền rủa, tủi hờn, cay đắng và nhục nhã.
Thay lời kết
Nói đến cái chết không phải là điều xui quẩy, không phải là trù dập hay hù dọa ai, cũng chẳng phải là bi quan, lạnh lùng như triết gia Hy Lạp Epicure: “Khi chúng ta sống cái chết vắng mặt, và khi chết là ta không còn sống nữa”, hoặc thái độ bất mãn như nhà thơ Du Tử Lê: “Chưa bao giờ tôi thấy kiếp sống con người lại có thể vô nghĩa đến thế?”, hay bàng quan của chủ nghĩa vô thần “chết là hết” hoặc như Arthur Schopenhauer có vẻ đắng cay và giằng xé : “Nếu ta nhìn sâu vào cái náo nhiệt của đời sống, ta thấy mọi con người bị giày vò bởi những đau khổ lo âu của kiếp người”, cũng không phải để nói đến sự đúng sai của mỗi bên quan niệm về sự chết, nhưng là để mỗi người chúng ta có dịp suy tư, có cái nhìn tích cực hơn khi triết lý về cùng đích của đời người. Heidegger cho rằng đời sống con người với ý niệm gần kề với cái chết, con người sẽ sống tha thiết và nồng nàn hơn.
Suy tư về cái chết của phận người và về cái chết của chính mình sẽ nhận ra giới hạn của kiếp người, của bản thân, tính bất định của sự sống. Qua đó, con người có thể sống tốt hơn, tương quan với tha nhân và yêu thương đồng loại nhiều hơn. Biết chia sớt nỗi niềm, thông cảm, tin yêu và phó thác. Biết chấp nhận và đón nhận bình thản cái chết một cách nhẹ nhàng. Ngẫm suy về sự chết sẽ giúp con người ý thức rõ hơn giá trị của cuộc sống, có cái nhìn tích cực và hành động đúng đắn hơn. Biết yêu thương và quý trọng con người như một nhân vị với đầy đủ ý thức và tự do, chứ không phải coi tha nhân như một món hàng hay bàn đạp để tiến thân dù trong xã hội và kể cả tiến thân trong đàng nhân đức.
Vâng, sự chết vẫn là điều bí nhiệm. Chúng ta được mời gọi vào đời cũng là để triết lý về huyền nhiệm ấy. Nhưng thiết tưởng, dẫu sao vẫn cần một niềm tin, tâm tình tôn giáo. Niềm tin mời gọi ta tiếp bước. Tâm tình tôn giáo giúp ta dấn thân và sống trọn vẹn hơn.
[/color]