Tác giả Chủ đề: Đói giáp hạt tại Thanh Hóa  (Đã xem 2814 lần)

0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.

Ngủ rồi sat_thu_thu

Trả lời #4 vào: 22-03-2012 01:45:37
Nên hiểu thế nào cho đúng về “Rừng vàng biển bạc”?
Trước tình trạng tài nguyên thiên nhiên bị tàn phá, lũ lụt xảy ra liên miên, nhiều nơi vẫn “thi nhau” phá rừng, kể cả rừng đầu nguồn và rừng phòng hộ ven biển vì cái lợi trước mắt mà không nghĩ đến lợi ích lâu dài…

Những việc làm thiếu ý thức đó không những làm mất đi hệ sinh thái phong phú dưới tán rừng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc phòng chống lụt bão.

Trước tình trạng nói trên, một số người cho rằng quan niệm không đúng về “rừng vàng biển bạc” tưởng như vô tận và là biểu tượng của một đất nước được thiên nhiên ưu đãi.Từ đó đã  giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức không đúng về thực trạng tài nguyên đất nước, có tâm lý chủ quan, ỷ lại vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có.

Ngược lại như nước Nhật, họ giáo dục con em rằng đất nước Nhật nghèo, không có tài nguyên, vì vậy cần cố gắng học tập, trở thành những người sáng tạo trong nghiên cứu đổi mới công nghệ. Còn nước ta thì lại nói với con em rằng Việt Nam “rừng vàng biển bạc”, làm thế hệ trẻ có tâm lý ỷ lại vào tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Khi thành người lớn rồi, mà nhiều người cũng vẫn chỉ biết dựa vào “đào bới, chặt hạ” thiên nhiên...  

Vậy thực chất vấn đề ra sao? Chúng ta đều biết rằng, một trong những nhiệm vụ của người lớn, của các nhà giáo dục là giúp cho thế hệ trẻ có nhận thức đúng đắn về đất nước, cuộc sống, từ đó hình thành nhân sinh quan, thế giới quan khoa học. “Rừng vàng biển bạc” là câu nói quen thuộc của người xưa, chỉ sự giàu có, quý giá của thiên nhiên đất nước.

Danh nhân Nguyễn Công Trứ đã có dụng ý khi đặt tên hai vùng đất mới do ông tổ chức khai khẩn lập nên là Tiền Hải (biển bạc) và Kim Sơn (núi vàng). Trong cách gọi ấy đã chất chứa tình yêu, niềm tự hào đối với giang sơn gấm vóc!

Liệu có gì sai khi chúng ta nói với con em sự thật về Tổ quốc mình là “rừng vàng, biển bạc”? Việt Nam là đất nước có đường bờ biển dài gần 3.500 km, hàng triệu km2 thềm lục địa, hàng ngàn con sông, với rất nhiều sản vật, diện tích núi rừng chiếm đến 40% với những cánh rừng nguyên sinh, hệ động vật và thực vật vô cùng phong phú. Nguồn tài nguyên khoáng sản của chúng ta cũng phong phú, nhiều chủng loại, trải dài từ Bắc chí Nam.
 
Cung cấp cho thế hệ trẻ những tri thức đúng đắn về đất nước, để các em yêu quý, tự hào, có ý thức giữ gìn bảo vệ, phát triển là đạo lý, là nhiệm vụ của các nhà giáo dục. Nếu ai đó nói rằng đất nước ta khô cằn, xơ xác, hóa ra chẳng là xuyên tạc, thiếu trung thực hay sao?
 
Người Nhật họ giáo dục con em họ như vậy, cũng xuất phát từ lòng trung thực, vì đất nước Nhật Bản rất nghèo nàn về tài nguyên, và thường xuyên phải chịu những trận động đất khủng khiếp. Trung thực là nền tảng, là gốc của đạo đức, giáo dục.

Xuất phát từ mong muốn giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần phát biểu về đất nước Việt Nam “rừng vàng biển bạc”.

Người nói nước ta “rừng vàng biển bạc” nhằm khẳng định những điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. “Nước ta có “rừng vàng biển bạc”, nhân dân ta cần cù” (Bài nói tại Hội nghị nghiên cứu lịch sử Đảng của Ban Tuyên giáo trung ương, ngày 28/11/1959). “Nước ta ở về xứ nóng, khí hậu tốt; Rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu…”( Bài nói chuyện tại Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa 3 ngày 16/4/1962).

Đặc biệt, trong cách nói “rừng vàng biển bạc”, Bác Hồ đã nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ rừng, giữ gìn tài nguyên thiên nhiên quý giá cho thế hệ sau. Người nói: “Ta thường nói “rừng vàng biển bạc”. Rừng là vàng, nếu mình biết bảo vệ, xây dựng thì rừng rất quý” (Bài nói tại Hội nghị Tuyên giáo miền núi, ngày 31/8/1963).  
 
Trong bài nói chuyện với nhân dân và cán bộ tỉnh Hà Bắc, ngày 17/10/1963, Người nhấn mạnh: “Tục ngữ ta có câu “rừng vàng biển bạc”. Gây rừng và bảo vệ rừng là rất cần thiết. Hiện nay tỉnh ta còn cái tệ phá rừng, thế thì khác nào đem vàng đổ xuống biển?”.
 
Như vậy, khi nói “rừng vàng biển bạc”, Bác Hồ đã phê phán mạnh mẽ tệ phá rừng, hủy hoại tài nguyên của địa phương. Những ý kiến của Người hôm nay vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự, nhắc nhở chúng ta về ý thức giữ gìn, bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá của Tổ quốc.

Từ đó, ý kiến cho rằng dạy cho thế hệ trẻ về Tổ quốc Việt Nam “rừng vàng biển bạc” làm phát sinh tư tưởng ỷ lại, thiếu cố gắng, hay là nguyên nhân gián tiếp gây nên tệ phá rừng là hết sức sai lầm, hoặc do cố tình xuyên tạc với ý định xấu. Một số người không hiểu vấn đề, chỉ biết nói theo người khác và vô tình đã gây nên những hậu quả không đáng có. Đó là hành vi chạy theo lối “phản biện” hời hợt, vô trách nhiệm.

 

Trần Quang Đại

Giáo viên trường THPT Trần Phú, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh

::::::::::::::::::::::::::::::::
 

LTS Dân trí - Giáo dục cho học sinh cũng như thế hệ trẻ có lòng yêu quê hương đất nước, tự hào đúng mức về giang sơn gấm vóc, với “Rừng vàng, Biển bạc”, để từ đó có ý thức giữ gìn, bảo vệ. Điều đó là hết sức cần thiết và đúng đắn. Nhưng mặt khác cũng cần giáo dục cho các em hiểu rằng, sự phát triển của đất nước trong thời đại ngày nay không thể chỉ dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên, mà quan trọng hơn và có ý nghĩa quyết định là “tài nguyên trí tuệ”, “tài nguyên công nghệ” mà các em phải ra sức trau dồi, học hỏi để tiến lên “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.

 

Trên cơ sở được giáo dục toàn diện, thấy rõ vai trò quan trọng của rừng như một mắt xích trung tâm trong hệ sinh thái tự nhiên, các em sẽ có ý thức bảo vệ rừng, nhất là rừng đầu nguồn và rừng ngập mặn bảo vệ bờ biển.


Tình trạng phá rừng hiện nay còn tiếp diễn chủ yếu vì người dân cũng như một số lãnh đạo địa phương còn thiếu ý thức bảo vệ môi trường, chỉ thấy lợi ích trước mắt, chưa quan tâm đến lợi ích lâu dài, bền vững; mặt khác, công tác quản lý rừng còn lỏng lẻo, chưa phát huy tốt vai trò nhân dân cũng như bộ máy kiểm lâm trong công việc chăm nom bảo vệ rừng.

*******

 


Ngủ rồi sat_thu_thu

Trả lời #3 vào: 22-03-2012 01:36:48
Còn nhớ năm 1986 stt trở về Việt Nam lần đầu sau 15 năm xa quê, có nhờ một ni sư đi cứu đói ở vùng Nghệ An. Lúc đó nguy hiểm, phải bó tiền trong người mà đi. Người ta bán con, chỉ 50 USD 1 đứa thôi. Hồi đó stt bị choc lắm. Nhưng cho tới bây giờ, đất nước thay đổi nhiều, người ta trở nên giàu ra, tỷ phú đô la, nhưng cái đói vẫn còn trong 1 quốc gia \\\"rừng vàng biễn bạc\\\"  :huh:

 


Ngủ rồi ONG GIA

Trả lời #2 vào: 22-03-2012 01:14:21
mình làm báo nhiều mình biết có nhiều khi nhà chủ tịch xã cùng thôn với một ngôi nhà nghèo khó nhất trong thôn đến miếng ăn cũng phải đi xin từng ngày nhưng khi được hỏi thì vị chủ tịch trả lời rất hồn nhiên : \\\"công việc nhiều quá nên chưa quan tâm hết tới đời sống bà con \\\" thế nên trách nhiệm vẫn mãi được né tránh.........

 


Ngủ rồi sat_thu_thu

Trả lời #1 vào: 21-03-2012 18:29:14
Đói giáp hạt tại Thanh Hóa
Gia Minh,

Tình trạng đói vào kỳ giáp hạt năm nay lại diễn ra ở nhiều huyện của tỉnh Thanh Hóa. Thực tế thế nào?


Ảnh: An Bình/webtuoitho.com

Thiếu gạo trầm trọng, nhiều hộ dân ở thôn Đông Tân, xã Đa Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hoá phải đào khoai ăn độn hàng ngày.

Đói giáp hạt

Nhiều bạn trẻ hiện nay không hiểu chữ giáp hạt là gì. Họ là những người sinh ra, lớn lên ở thành phố được nuôi dưỡng đầy đủ không hề biết rằng nông dân Việt Nam trước đây đói khổ thế nào khi mà lương thực vụ mùa cũ không còn cho những tháng ngày trước kỳ thu hoạch của vụ mùa sau.

Trong khi có những người ngay tại Việt Nam thừa mức thức ăn, đồ uống thì mạng Nông nghiệp Việt Nam loan tin huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa phải gửi công văn hỏa tốc đến cấp chủ quản là Ủy ban Nhân dân tỉnh đề nghị cứu đói cho người dân của huyện này trong kỳ giáp hạt tháng ba.

Bài báo đưa ra con số là có đến 12 huyện tại Thanh Hóa với gần 70 ngàn dân đang thiếu lương thực. Số dân này hiện sinh sống tại các huyện miền núi và vùng ven biển.

Một người dân tại Thanh Hóa vào chiều ngày 12 tháng 3 trình bày về khó khăn của bản thân, gia đình cũng như của những bà con khác trong khu vực:

Hiện nay đói lắm, gạo lúa lên nhiều. Ruộng ở đây người ta chẳng làm mấy, người ta bỏ đi làm ăn xa hết.

Quê nhà tôi làm muối mà năm, sáu tháng nay không có ngày nắng nên không làm được hạt muối nào. Hôm vừa rồi tôi nói với bà con là nếu không có đi làm ăn xa, mà mưa nắng như thế này thì ngày xưa không biết lấy gì mà ăn.


Trong bếp của một gia đình nông dân thuộc huyện Lang Chánh (Ảnh báo Người Việt)

Địa phương chỉ hỗ trợ cho những người được xét nghèo quá nghèo, thì được cho vài yến gạo; rồi được miễn giảm những khoảng đóng góp.

Bài viết của mạng Nông nghiệp Việt Nam nêu ra một vài trường hợp cụ thể mà theo tác giả bài viết cho biết đã đích thân đến với họ để xem họ đang phải cầm cự thế nào trong những ngày này. Địa phương nơi phóng viên đến là bản Tân Sơn, xã Thanh Xuân, huyện Quan Hóa, và đó là trường hợp gia đình ông Phạm Bá Kiếp 45 tuổi với bốn miệng ăn mà trên gác bếp chỉ còn mấy củ sắn đủ cho vài ngày tới. Rồi gia đình ông Cao Văn Nhâm với 6 nhân khẩu sống trong một nhà sàn lợp bằng lá cọ dột nát và cả tháng khi người phóng viên đến họ cũng chỉ có sắn để ăn mà thôi.

Chính quyền phủ nhận

Vào chiều ngày 12 tháng 3, chúng tôi gọi điện đến phó chủ tịch huyện Quan Hóa, bà Phạm Thị Hoa, và bà Nguyễn thị Thanh Xuân, giám đốc Sở Lao Động Thương binh và Xã  hội để hỏi thăm về tình hình mà người dân và báo chí phản ánh.

Cả hai bà đều có cùng câu trả lời là đang bận họp và những thông tin mà báo chí nêu ra là không chính xác.

Bà Phạm thị Hoa nói:

Hiện tại tôi đang họp, còn việc bài báo đó lên chỉ là bài báo, còn thực tế, thực trạng của huyện như thế nào, mời ông đến để trực tiếp; chứ giờ tôi còn đang họp nên không thể trả lời ông được. Xin lỗi ông.

Và đây là phát biểu của bà giám đốc Sở Lao động Thương Binh- Xã hội tỉnh Thanh Hóa, Nguyễn thị Thanh Xuân:

Tôi đang họp nên không thể trả lời được. Còn chuyện báo chí phỏng vấn tôi đã cho anh em nắm tình hình rồi. Báo chí đi phỏng vấn, phản ánh tình hình thực tế nhưng không đúng như thế.

Người dân Thanh Hóa mà chúng tôi nói chuyện về tình trạng đói kém ở tỉnh nhà cho biết tâm trạng chán nản của nhân dân không còn muốn đề nghị  cho cơ quan chức năng vì tiếng nói của họ không được lắng nghe lâu nay:


Người dân xã Trung Lý, huyện vùng cao, biên giới Mường Lát (Thanh Hóa) nhận gạo cứu trợ năm 2011 (ảnh minh họa). Courtesy tuoitre


Bây giờ người nọ sợ người kia nên chẳng ai dám nói ra cả. Nhân dân chịu hết , nói chẳng ai nghe. Bây giờ cứ người nọ ôm chân người kia cả. Đề xuất chẳng ai nghe, mình biết rõ ràng nhưng nói ra chẳng ai nghe.

Giải pháp chung chung

Mới hồi năm ngoái thông tin cũng cho biết Thanh Hóa có chừng 240 ngàn người thiếu đói trong thời kỳ giáp hạt. Và đây không phải là tình trạng mới xảy ra.

Chúng tôi nêu vấn đề ra với ông Đỗ Quốc Cảnh, chánh văn phòng Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa, và nhận được trình bày về phương cách giải quyết trước thông tin đói giáp hạt tại tỉnh này:

Cả nước đều có chương trình xóa đói, giảm nghèo. Những huyện nghèo thì có chương trình giảm nghèo bên vững. Chúng tôi tập trung với tinh thần tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, nâng cao năng lực cho những hộ thiếu đói. Hổ trợ cho họ về kiến thức, tại điều kiện cho vay vốn, hổ trợ kỹ thuật để họ tự sản xuất kinh doanh, tạo thu nhập. Đó là cái bền vững. Còn thiếu đói giáp hạt như thế này chỉ xử lý những tình huống nhất định trong một khoảng thời gian nào đó thôi. Còn về lâu dài phải phát triển kinh tế xã hội.

Chương trình của Thanh Hóa tất nhiên khung giảm nghèo bền vững như thế; nhưng áp dụng thì phải tùy vào tình hình cụ thể từng vùng từng huyện, phát triển ngành nghề gì. Các huyện phải xây dựng đề án giảm nghèo nhanh và bền vững. Trong đề án có gắn cụ thể tình hình thực tế của từng địa phương. Những đặc thù gắn trong đó.

Bây giờ có một số mô hình được xây dựng, và lâu nay có tổng kết nhân rộng mô hình giảm nghèo: mô hình phát triển chăn nuôi, gia đình, nông lâm kết hợp. Năm nào cũng có tổng kết, xây dựng những mô hình trình diễn để các địa phương học tập.

Thanh Hóa có mô hình trồng luồng, trang trại, thâm canh, trồng trọt một số có giá trị kinh tế cao… Các đoàn thể như Hội Cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Nông dân …đều có những chương trình lồng ghép xây dựng các mô hình để giới thiệu cho các hội viên.

‘Ăn no, mặc ấm’ tiếp tục vẫn là mơ ước của rất nhiều người dân tại Việt Nam. Trong thời gian qua dư luận tại Việt Nam xôn xao về những đám cưới con cái ‘đại gia’ tiêu tốn nhiều tỷ đồng; trong khi đó chính cơ quan chức năng cho biết có những tên tuổi được cho là đại gia ở Việt Nam đang nợ tiền thuế. Thế rồi có đại gia sài vô cùng sang nhưng nợ tiền cá của nông dân và tiền lương công nhân.

Trách nhiệm của những nhà quản lý xã hội lại được đặt ra.

*******